Chương 17

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương 17

 Ngồi bên bờ kênh hóng gió đêm mát rượi , vừa uống trà đốt thuốc vừa kể chuyện ma . Cái thú này nhàn nhã quá cho nên cả ba người , người kể kẻ nghe điều mê mẩn quên hẳn đi trời đã tối xầm . Bảy Tôn Tẩn định lên tiếng trách Ba Địa mần cái gì mà cà rề lâu lắc quá , giờ này còn chưa mò ra tới , thì Ba Bụng lại khề khà kể tiếp . Chắc ông đang ngon trớn nên không thể nào dừng lại được . Ông ngã người ra sau , chống hai tay xuống đất duỗi thẳng hai chân cho thoải mái rồi mới nói :

  - Nói về ba cái chuyện ma quỷ thì biết tới chừng nào mới nói hết chuyện . Tụi bây nên nhớ là người tin ma thì sẽ gặp ma nhưng kẻ không tin ma tất nhiên chẳng bao giờ được gặp ma . Tao từng tuổi này mà chỉ nghe kể chớ chưa hề gặp ma lần nào cả . Nhớ hồi nhỏ , mấy đứa bạn tụi nó đi đánh lộn với ma hà rằm . Nghe tụi bạn nó kể thì tao cũng tin lắm . Tò mò muốn biết cho nên vài lần tao ôm con chó mực đi theo để núp trong góc  coi người và ma đánh lộn ra mần sao . Nói thiệt , tao chỉ nghe đánh đấm ịch đụi chớ có dòm thấy cái gì đâu .

  Bảy Tôn Tẩn ngạc nhiên hỏi :

  - Người đánh lộn với ma . Bộ chuyện này có thiệt sao ông già ? Tôi cũng nghe mấy ông già ở cùng xóm hồi xưa nói giống y như vậy , nói là ban đêm người và ma đánh lộn , mà ma thì thuộc về ban đêm nên tụi nó đâu cần ngủ nghê , cứ níu kéo muốn đánh hoài , trời mà chưa sáng là chưa chịu nghỉ cho nên tới chừng nào phe mình mệt thì đánh cho con chó kêu lên vài tiếng là ma nó chạy hết để mình đi về ngủ . Có người còn kể là ma bị người sống chơi thả chó nên tức , lần sau hễ bên mình thả chó mực ra thì tụi nó quăng cả đống rắn bò lểnh nghểnh khiến cho phe ta chạy thiếu điều tuột quần .

  Ông Ba Bụng gật gật cái đầu đồng tình :

  - Ừ , ban đêm mình dòm tưởng đâu rắn ai dè sáng trở lại thì toàn là môn nước . Cái này thì chính mắt tao thấy nên tao tin là có thật chớ ma thì tao chưa thấy bao giờ . Mà chuyện ma với người đánh lộn này xảy ra hồi xưa kìa , cái thuở đất rộng người thưa , nhà thì xa xa mới có một cái cho nên ma quỷ nó mới dám lộng hành như vậy , chớ bây giờ mầy coi , chỉ có một thằng Năm Lăng treo cổ thôi mà cả làng thảy điều rởn tóc gáy .

  Bảy Tôn Tẩn tiếp lời Ba Bụng :

  - Ba cái vụ ma cỏ này tôi cũng chẳng có tin chút nào hết ông già ơi . Đi lính thì có thằng nào mà không ngủ chung hoặc ăn chung với xác chết đâu chớ . Thấy riết đâm ra nhàm cho nên đâu còn biết sợ sệt là gì nữa . Nhưng có một thứ mà người ta gọi là ma xó thì tôi tin nó có thật một trăm phần trăm đó ông già .

  Hai Tiến nghe đến tên ma xó thì giật mình , nhớ ra một chuyện nên anh ta vội lên tiếng hỏi liền :

  - Ủa , anh Bảy . Tôi cũng nghe có người nói tới ma Xó , nhưng ma xó là ma gì chớ , nó có đi bắt người sống như ma thần vòng hông ?

  Ba Bụng lắc đầu trả lời Hai Tiến :

  - Ma xó theo tao biết thì ở vùng mình hổng có ai nhắc tới nhưng ở miền cao , tức những vùng đồi núi Trung và Bắc phần , nơi có nhiều đồng bào thiểu số sinh sống mới có ba cái thứ ma này . Nhất là dân tộc Mường thì phần đông họ tin vào bùa ngãi và nuôi ma xó trong nhà .

  Hai Tiến cãi lại :

  - Sao tôi nghe người ta kể là ông Thầy Tư cũng có con ma xó để giữ nhà cho ổng nữa mà bác Ba .

  Ba Bụng lắc đầu cười xòa :

  - Thằng chả chỉ xạo là giỏi . Chả hù thiên hạ đó . Cứ úp úp mở mở cái điệu đó khiến cho người ta sợ rồi hổng dám mò tới nhà của chả . Mà hổng có ai dám mò tới nhà chả thì cái bí mật thầy bà của chả có ai biết được rõ ràng chớ .

  Nói tới đó thì ông Ba Bụng cắt nghĩa sự lợi hại của giống ma xó mà theo sự hiểu biết qua sách vở của ông thì đó chỉ là loại ma giữ nhà , một thứ cũng do bùa ngãi luyện thành của dân tộc Mường ở vùng thượng du . Ông cho là những thầy cúng bùa chú cao tay thường thờ thần ếm thần bùa trong nhà , bên trên bàn thờ của họ thường thì có cái lọng màu xanh để che . Đây là điều quan trọng để phân biệt với mấy ông thầy cúng thông thường . Mấy ông thầy bùa cao tay ấn này không khi nào thờ bùa trong chỗ ở của mình , mấy ổng cất một cái tum nhỏ phía sau nhà rồi ếm bùa ngãi chi đó khiến cho người ngoài không biết cứ biểu đó mà nhà có nuôi ma xó . Sự thật thì trong cái tum đó ổng có thờ một con sâu bự như cái cán cuốc . Con sâu này rất đặc biệt , nó muôn đời cứ vẫn là sâu chớ không hề hóa thành bươm bướm . Thức ăn cho con sâu cũng khá lạ , nó ăn toàn là xác chết động vật . Phân của chúng là một loại thuốc độc cực mạnh , mấy ông thầy bùa này trộn phân sâu với nhựa của cây sui lấy trên rừng về tạo thành một thứ độc dược nguy hiểm . Mấy ổng lấy thứ độc dược này ngấm ngầm tẩm vào bất cứ đồ dùng nào trong nhà , mà hễ ai chạm tới thì coi như bị trúng độc ngay . Người trúng độc sẽ từ từ ốm yếu ho hen , có đi bao nhiêu bác sĩ cũng không khỏi . Người trúng độc chỉ có thể đến quì lụy van xin thì họa may ông thầy bùa mới giải độc cho . Cái này người ta kêu là bị con ma xó chày , hễ bị chày rồi thì sớm muộn gì cũng chết . Con ma xó nó khác xa với ma thần vòng , ma thần vòng là do linh hồn vất vưỡng không đi đầu thai nên cứ ở lại dương gian tìm cách hại người . Còn ma xó chỉ là sản phẩm tạo ra do bùa ngãi mà thôi . Nhưng con ma xó , theo như ông Ba Bụng biết thì chỉ là một con sâu . Nhưng con sâu này cũng khá lạ , nó vốn là râu của con cọp nuôi lâu ngày trong ống nứa mà thành . Bởi vậy , người miền cao hễ ai săn được cọp thì lập tức nổi lửa đốt cháy tiêu bộ râu tua tủa của ông cọp liền , vì họ sợ nếu để râu cọp rơi vào tay thầy bùa thì sẽ di hại về sau cho buôn làng của họ .

  Nghe chưa hết câu chuyện ma xó mà bình trà đã cạn nên bất đắc dĩ Hai Tiến mới mò trở lại cái bếp trong chòi để lấy thêm nước sôi châm trà . Bởi hình ảnh con ma thần vòng cái lưỡi dài ngoằn còn ám ảnh trong đầu cho nên cái cảm giác rờn rợn cứ bám riết theo phía sau khiến cho Tiến nghe sóng lưng của mình lành lạnh không dứt . Tiếng mấy con dơi quạ tranh nhau trên ngọn cây mù u , có vài trái rớt xuống mái chòi nghe lộp độp . Âm thanh này hàng đêm nghe hoài riết rồi quen tai quá nhưng sao hôm nay hễ mỗi lần có trái mù u rớt là mỗi lần Hai Tiến giật bắn người lên , mắt cứ dòm dáo dát như có ai đang đứng phía sau lưng với cái lưỡi dài liếm qua liếm lại . Hai Tiến trách mình sao nhát gan quá , thường ngày thì vắng teo lạnh ngắt một mình trơ trọi mà có biết sợ sệt là gì nhưng mới nghe chuyện ma một chút lại sanh ra hồi hộp run sợ . Tuy trách mình nhát gan nhưng anh ta vì không muốn trở vào để châm trà thêm lần nào nữa cho nên xách luôn cả ấm nước sôi và bình trà ra thẳng ngoài bờ kênh , nơi anh Bảy và ông Ba Bụng còn đang ngồi cà kê kể chuyện . Tiến ra tới nơi thì nghe anh Bảy đang kể chuyện ma xó , một chuyện mà anh cho là khó tin nhưng có thật . Anh đưa tay xoa xoa chỗ vết thẹo nơi cổ chân , chắc có lẽ trời trở lạnh nên nơi vết thương cũ bị ảnh hưởng , đau nhức trở lại . Anh kể bằng một giọng tự nhiên , tự nhiên vì đó là chuyện mắt thấy tai nghe chớ không phải do thiêu dệt thêm thắt :

  - Hồi sau Mậu Thân , tiểu đoàn của chúng tôi được lệnh lên cao nguyên nằm một thời gian để yểm trợ cho một cái đồn heo hút nằm cheo leo giữa vùng núi rừng xanh biếc .

  Anh Bảy kể vì đó là vùng rừng núi âm u , chung quanh chỉ có mây mù và núi rừng trùng điệp . Ngày cũng như đêm , chỉ có tiếng vượn hú voi kêu và tiếng hót buồn thảm “bắt cô trói cột” của một giống chim rừng nào đó . Cách chỗ đại đội của anh nằm mấy cây số có một cái buôn làng của người Thái , chung quanh cũng có vài buôn làng khác của người dân tộc thiểu số như Ra đê , Mơ Nông v.v . Nhưng những buôn này xa hơn cho nên đại đội của anh Bảy chưa hề đặt chân tới . Vì nhiệm vụ của toán anh là nằm trụ một chỗ , mục đích chính là bảo vệ cái đồn và ngăn chận đường xâm nhập quân chính quy Bắc Việt từ bên kia biên giới sang . Anh Bảy lúc bấy giờ là trung đội nên thường được phái dẫn trung đội bung ra hơi xa tuyến đóng quân để tảo thanh hoặc giữ an ninh quanh tuyến . Vì cái câu “Bạc như dân , bất nhân như lính” cho nên anh thấy tốt nhất là cần phải đề phòng , anh ra lệnh cho lính của trung đội mình nên tránh xa các buôn làng , một là tránh bị phát giác , hai là sợ các phần tử xấu trong đơn vị có thể gây thiệt hại cho dân chúng .

  Trong một chuyến hành quân an ninh vòng đai như thường lệ , anh Bảy dẫn trung đội băng rừng về hướng Tây . Sau một ngày hành quân mệt nhọc , trung đội anh chẳng phát giác được dấu vết nào của Bắc quân để lại cho nên anh ra lệnh rút về . Tuyến đóng quân thì còn xa cả năm sáu cây số mà nước uống đã cạn , lại không thể xuống suối múc nước để uống vì đa số suối ở vùng này là suối độc , uống ẩu tả vô có khi mang hại đến mất mạng như chơi . Bởi khát quá cho nên khi băng ngang một buôn làng người Thái thì có hai anh lính vì chịu khát không nổi nên năn nỉ trung đội trưởng Bảy để vào buôn tìm nước . Anh Bảy đồng ý , thế là cả hai mừng húm chạy u vào buôn . Khoảng 20 phút sau họ trở ra với bốn cái nón sắt đầy nước , mọi người hân hoan chia nhau uống rồi tiếp tục tuôn bờ lướt bụi trở về tuyến đóng quân .

  Khi về đến điểm đóng quân cũng chẳng có gì xảy ra cho tới buổi chiều hôm ấy . Một quân nhân bỗng lăn ra rên la thảm thiết vì chứng đau bụng rất lạ . Anh ta vốn là một trong hai người lính đã vào buôn xin nước lúc ban trưa . Y tá ban quân y tới chuẩn bệnh và chửa trị nhưng cái bụng đau vẫn cứ đau , mà lạ lùng thay càng ngày cái bụng của anh càng trương lớn lên như bà bầu . Lúc ấy vì mới sau Tết Mậu Thân không lâu cho nên khắp bốn vùng chiến thuật chỗ nào chỗ nấy vẫn còn lộn xộn chưa yên tỉnh lại , bởi vậy muốn xin trực thăng tãi thương cũng phải đợi chờ lâu lắc lắm mới may ra có được . Tình trạng của anh bệnh binh càng ngày càng tệ hơn , cứ rên la kêu vợ réo con thật là thảm thiết trong khi cả đơn vị cũng đành bó tay đứng nhìn . Là trung đội trưởng nên anh Bảy lo lắng không ít , thoạt đầu anh cứ nghi là trong nước uống có độc nhưng khi nghĩ lại thì mấy anh em trong toán ai cũng uống nhưng sao chỉ có một mình anh ta bị đau bụng , mà lại đau bụng một cách kỳ lạ . Anh Bảy muốn hỏi thêm nhiều chi tiết khác để phăng ra nguyên do nhưng anh bệnh binh này đầu óc tâm trí như đã mê man , có biết gì nữa đâu mà trả lời .

  Anh nhớ lại người lính đã cùng anh ta vô buôn xin nước nên bắt đầu dọ hỏi anh lính này . Khi được hỏi tới thì anh ta cho biết :

  - Tôi thiệt tình là hổng có biết cái gì hết trọi ông thầy ơi . Khi vô buôn thì tôi vào một nhà ở phía ngoài cùng , gặp một bà già và tôi chỉ cái giếng hỏi xin nước . Bà già người Thái gật đầu thì tôi lo kéo nước đổ vào bốn cái nón sắt cho đầy , trong khi thằng Hải nó nói để đi vòng vòng coi có cái gì lạ không và cũng để canh chừng cho tôi kéo nước . Tới lúc lấy nước xong xuôi tôi mới kêu nó , thấy nó chạy ra từ một căn nhà gần đó mà cái miệng còn nhai ngồm ngoàm . Thấy tôi nhìn nó như dò hỏi ăn cái giống gì đó thì nó cười mà cho biết là nó vô một cái gì trống không , lên tiếng gọi gia chủ nhưng chẳng có ai trả lời . Sẳn dòm thấy trong cái rổ đặt trên bàn có ba trái bắp nấu bự tổ chảng , sẳn đang đói bụng cho nên nó ăn hết ráo . Nó còn kể có một chuyện lạ là hễ mỗi lần nó thò tay lấy một trái là có tiếng ai đó trong góc nhà đếm lên một tiếng . Tiếng đếm vang lên ba lần cho ba trái bắp nấu mà nó ăn . Thẳng nói thẳng dù teo teo trong bụng nhưng vì đói quá nên kệ nó , ai đếm cứ đếm còn mình thì ăn vẫn cứ ăn . Tôi nghe nó kể mà tức quá nên chửi nó là đồ ham ăn , có bắp nấu chỉ ăn mình ên hông chia chát cho anh em . Nó nhe răng cười hề hề biểu là quá đói nên quên anh em . Mà ông thầy nghĩ coi có phải vì mấy trái bắp nấu đó mà nó bị sình bụng trúng thực hay là bị mắc phải cái giống gì .

  Trung đội trưởng Bảy đành bó tay , anh là quân nhân chớ có phải y sĩ bác sĩ gì đâu mà biết trả lời . Vài hôm sau có trực thăng vào tiếp tế , anh bệnh binh được bốc về Quân Y Viện để chửa trị . Nhưng ba ngày sau thì đơn vị nhận được tin điện báo là anh ta đã chết . Trong bệnh án ghi rõ ràng là chụp quang tuyến X nhìn thấy đương sự nuốt ba cây đinh dài 10 phân vào trong bụng , bị nhiễm trùng rất nặng cho nên lây lan sang ruột gan phèo phổi , lục phủ ngũ tạng  gần như tiêu hết , quá trễ để chửa trị . Cả đơn vị nghe tin ngỡ ngàng hết sức , riêng anh Bảy thì vừa thương tiếc thằng em vừa nghe sóng lưng lành lạnh . Sóng lưng anh lạnh vì biết chuyện thằng Hải đã ăn ba trái bắp nấu nhưng tại sao chụp quang tuyến lại nhìn thấy ba cây đinh ! Anh thắc mắc cho rằng chuyện quá hoang đường , hoang đường nhưng lại xảy ra cho thằng em của mình . Tức trong bụng cho nên anh Bảy mang chuyện này kể lại với một trung đội trưởng cùng đại đội . Lúc ngồi kể thì có anh trung đội phó của trung đội bạn cũng ngồi gần bên nên nghe . Anh trung đội phó này vốn là một người Thượng Ra đê , nghe anh Bảy kể xong thì anh lính Thượng lên tiếng :

  - Nó bị chài rồi ! Mấy thằng người Thái đó bùa ngãi dữ lắm . Thằng lính của ông bị ma xó đếm rồi . Bị ma xó đếm nếu hông biết thì chỉ có nước chờ chết thôi !

  Anh Bảy ngạc nhiên hỏi lại :

  - Ma xó , ma xó là ma gì ! Hồi nhỏ tới giờ tôi có nghe ai nói tới thứ ma gì mà kỳ lạ nầy đâu chớ .  

  Anh lính Thượng gật gù giải thích :

  - Có một số người Thái thờ ma xó trong nhà để giữ của . Hễ ai vào nhà lấy cái gì mà không được phép của chủ nhà thì ma xó sẽ đếm . Cứ mỗi thứ thì nó đếm một lần , và tùy loại ma xó mà nó sẽ chài đinh hoặc đá hay khúc cây vô bụng của kẻ lấy đồ đó .

  Anh Bảy nghe qua bật ngữa . Chuyện lạ thế gian xưa nay chưa từng nghe đến . Ma giữ của nguy hiểm đến thế ư . Anh mới lên tiếng hỏi :

  - Rồi nếu như vô tình bị nó chài là chết không có cách cứu sao ?

  Anh lính Thượng lắc đầu cắt nghĩa :

  - Nếu như mình biết sớm thì trở lại nhà , năn nỉ ông chủ nhà mà trả đồ lại hay bồi thường thì ông chủ nhà thông cảm xin với ma xó tha mạng cho . Thằng Hải chỉ ăn mấy trái bắp mà chết oan mạng , nếu tôi biết chuyện nó bị đau bụng tôi sẽ đoán ra ngay và nói với ông kêu người tới nhà đó để xin lỗi , may ra thì thằng Hải còn sống . Nhưng loại ma xó chài này cũng kỳ cục thiệt , nếu như mới bị nó chài thì còn dễ cứu chớ để lâu ngày quá dù con ma đó có muốn cứu cũng đành bó tay vì gan ruột trong bụng tiêu tùng hết rồi thì làm sao mà cứu nổi .

  Sau đó anh lính Thương còn cho biết thêm là trong buôn làng người Thái , gia đình nào muốn thờ ma xó thì khi trong nhà có người chết , bất kể là già trẻ bé lớn . Họ chặc một khúc cây to , khoét bọng bên trong rồi nhét xác chết vào trong và bịt kín lại . Sau đó họ làm lễ tế phù phép một thời gian , xác chết kia trở thành ma xó . Khúc gỗ có chứa con ma xó được đặt trong một xó kín đáo để giữ nhà . Có nhiều gia đình người Thái luyện ma xó chẳng những để giữ nhà mà còn giữ cả nương rẫy nữa . Bởi vậy những sắc dân khác ở chung quanh có cho vàng họ cũng chẳng dám hái trộm đồ trên nương rẫy của người Thái .

  Nghe xong câu chuyện ma xó có thật một trăm phần trăm do chính anh trung đội trưởng Bảy Tôn Tẩn kể ra khiến ông Ba Bụng nghe qua cũng phải rùn mình . Thời buổi nhân loại văn minh phóng phi thuyền lên tận cung Quãng thăm Hằng Nga , nền khoa học tiến bộ tưởng chừng như chẳng còn gì mà không giải thích nổi này nhưng những hiện tượng ma quái ly kỳ , phản khoa học kia thiệt là khó có thể chứng minh , khiến cho đầu óc con người ta vẫn còn hoài nghi ở bên cạnh cuộc sống bình thường hàng ngày còn có vô số những điều bí ẩn , không sao giải thích nổi .

  Câu chuyện quanh bình trà đêm nay bắt đầu từ ông Tư Hàng xóm dựa vào thần thánh đánh lừa bà con , nói vòng nó vo quanh co một hồi đề tài lại đi vào thiên linh cái , rồi qua ma thần vòng ma xó . Nhưng vì ý của anh Bảy là ngồi đợi thằng Ba Địa coi nó ra nói năng xin lỗi xin phải với Hai Tiến ra làm sao , vã lại trời mới tối cho nên chưa gấp gáp gì lắm . Ông Ba Bụng tánh vốn thích thiên hạ sự cho nên có ai ngồi nghe là ông không tài nào nhấc cái đít ra khỏi chỗ ngồi được . Ông uống cạn chén trà , trầm ngâm với câu chuyện ma xó của anh Bảy vừa kể . Ông nói :

  - Những chuyện khó tin nhưng có thiệt này khiến cho con người ta cứ như mê muội trong cái vòng lẩn quẩn rắc rối . Cái kiểu nghe rồi tin bừa chẳng biết tìm tòi cho ra nguyên nhân , để cho nhiều thằng cha thầy mo thầy pháp bất nhân thấy dễ lừa quá nên đi học lóm ba mớ ba nhắm ở đâu trở về hù dọa , hầu trục lợi cho bản thân của mình . Ở làng mình thì tao thấy nhan nhản trước mắt có thằng cha thầy Tư . Tụi bây nên biết , mấy thứ bùa ngãi này muốn học thì phải học cho tới nơi tới chốn chớ ba mớ như chả mà làm được cái tích sự gì . Chỉ có bà con của mình còn u mê quá nên sợ thẳng , thiệt ra thì thẳng chỉ là một lão thầy bịp bợm , bịp bợm để làm cái gì thì tao chưa biết thôi .

  Nói tới đó ông Ba Bụng giảng giải cách luyện bùa nuôi ngãi mà theo người bạn của ông già ông có nói qua , giờ nhớ bao nhiêu nói bấy nhiêu cho Bảy Tôn Tẩn và Hai Tiến nghe để hai người hiểu biết thêm chút đỉnh về sự lợi hại của các loại ngãi mà đa số dân chúng miền sông nước chỉ nghe thôi chớ chẳng có ai hiểu rõ nguồn cội gốc tích của nó .

  Ông cho biết bùa ngải chỉ là một trong những hình thức khai triển huyền thuật , bên cạnh còn có trù ếm , thần thông và thôi miên nữa . Nói về huyền thuật thì nó đã có một lịch sử lâu dài đâu cả vài ngàn năm mà bất cứ dân tộc hoặc tôn giáo nào cũng có huyền thuật riêng của họ . Riêng ở Việt Nam thì huyền thuật có loại tự sinh hoặc du nhập , đặc biệt nó đến từ các dòng Nam Tông như các nước Ấn độ , Thái Lan , Miến điện và Miên . Dòng Tiên đạo thì từ Trung quốc và Tây Tạng , một huyền thuật khác không du nhập tức là thuộc những sắc tộc bản xứ ở cao nguyên Trung và Bắc phần như Mường , Thái , Mèo v.v . Mỗi dòng đều có thế mạnh thế yếu nhưng ngày xưa , khi khởi thủy thì bùa ngải chỉ dùng để chửa bệnh hoặc trừ ma diệt quỷ chớ không dùng để hại nhau sống dỡ chết dỡ như ngày nay . Ở miền Nam nói riêng , huyền thuật thịnh hành theo dòng Nam Tông , bùa chú xuất xứ từ Thái lan hoặc Miên . Theo dòng này thì tôn chỉ của huyền thuật là điều chỉnh quan hệ giữa con người với cõi siêu nhiên , vì vậy điểm xuất phát của bùa ngải đơn thuần chỉ vì mục đích tốt , cứu độ tha nhân .

  Nói chung thì dòng huyền thuật nào cũng có bùa hại . Bùa hại là gì . Bùa hại từ sơ khởi cũng đã có tính cách để răn đe , để trừng phạt những người xấu và cải quá họ hồi đầu phục thiện . Nhưng cái gì cũng vậy , hễ có lợi tất sẽ có hại . Dùng bùa ngải thì phải biết là dù ở đẳng cấp nào cũng có cái giá để trả tương xứng với đẳng cấp ấy . Bởi vì huyền thuật sơ khai mang mục đích tốt đẹp cho nên pháp sư nào cũng vậy , những người có khả năng khai triển huyền thuật là những người đạo đức , thành tâm vì tha nhân mà phát nguyện . Còn ngày nay , nhiều thầy bùa , thầy pháp tạp nham ba mớ công khai dùng huyền thuật nửa vời của mình để hại đời trục lợi cho bản thân , ấy thế mới nãy sinh ra nhiều tà thuật dối trá gạt đời là vậy .

  Ông Ba Bụng phân tích , ngải là một loại thực vật ngoại biến càn khôn , thường mọc trong những vùng rừng núi nhiệt đới như Thất sơn hoặc Trường sơn Việt Nam , Lai châu Vân Nam bên Tàu hoặc núi Tà lơn , Lục sơn bên Cao Miên . Nói tới ngải thì chúng có nhiều loại , vừa nguyên thủy vừa lai giống có thể lên tới gần 800 loại . Đã có nhiều loại được các nhà nghiêng cứu khoa học đặt tên và công nhận tính năng chửa bệnh hay giúp ích đối với cơ thể con người . Nhưng ngoài ra , đa số ngải vẫn còn nằm trong vòng bí ẩn mà tên gọi chỉ được truyền khẩu qua kinh nghiệm dân gian hay các ngải sư với nhau .

  Ngải là loại thực vật có củ , nhỏ thì như củ nghệ như ngải nàng thâm , nàng xoài , ngải đen . Loại thứ lớn hơn thì cỡ bắp vế như ngải mảnh hổ , cuồng phong , ngải tượng v.v . Chúng có tánh linh tự nhiên thật là kỳ diệu , một củ ngải khô đã vài năm cất trong nhà nếu không chạm đất nhưng khi lấy ra để vô chậu , chỉ đọc một câu chú mời gọi thần ngải về chứng thì vài tuần sau nó sẽ tự động mọc mầm sống lại , ra hoa như thường . Những cơ sở buôn bán làm ăn người ta , nếu vô tình người chủ trồng một vài chậu ngải bún tức là ngải hẹ ở trước nhà với mục địch làm kiểng , nhưng tự nhiên từ đó đông khách đắt hàng . Chính gia chủ cũng chẳng biết vì mình đã trồng đúng thứ ngãi quến khách cầu tài . Tuy nhiên nếu để cây ngải tự nhiên như vậy thì kết quả đến với người cầu rất thấp , muốn ngải phát huy hết chức năng của chúng thì cần phải qua tay của một ông thầy cao tay về ngải . Ông thầy này bụng chứa đầy bùa chú và thuật tom ngải , tom tức là cột lại , cột sợi chỉ bùa phía dưới chậu ngải của ông luyện . Ngải có nhiều loại , đại để như ngải thương , ngải ghét , ngải ăn nói ngoại giao , ngải cầu tài , ngải quan tư tất thắng , ngải bình an giải nạn , giao tế viên mãn , thương mãi đại lợi , nói chung là đủ thứ hết . Luyện ngải công phu đòi hỏi so ra thì dễ hơn luyện thiên linh cái gấp trăm lần . Chỉ cần ông thầy rành rọt thần chú , biết phân loại ngải . Khi luyện ông thường xuyên mang ngải phơi nắng phơi sương hấp khí thụ âm dương trời đất trong một thời gian không lâu , nuôi chúng bằng hột gà đàng hoàng . Khi tới giai đoạn tác bạch thì cúng tế hương đàn nhưng đơn giản hơn thiên linh cái nhiều . Tác bạch tức là nói cho ngải biết mình đang luyện loại ngải với công dụng gì đó , như thương , ghét , cầu tài v.v .

  Kể tới đây thì ông Ba Bụng dòm Bảy Tôn Tẩn :

  - Tao còn nhớ mang mán một bài thần chú , để tao đọc cho mày với thằng Tiến nghe chơi .

  Đoạn ông đằng hắng một tiếng rồi mới giở giọng pháp sư đọc thần chú , giọng của bài con cò xanh nhảy quanh hòn đá :

  - Án thầy rừng đại tướng thầy rừng , phi tà án bộ . Hỡi chúng quỷ tà linh , âm binh rừng ở đâu sao ta chưa thấy tới ? Ớ …. Ma ru ma ru ven rừng ba chu , thời thừa chi quy tu tục , phất tức phất xạ lu cha tha , năm tơ-rây hào đây huê kiểng ràng ràng thâm thâm ắ rặc . Ơ …. Ma ru ma ru . Nam mô tam vị thánh tổ , 36 mẹ tổ ngải 12 nàng ngải , 12 mụ ngải , mẹ lục mẹ lèo , chú cậu các đẳng nhang vàng , thần ngải lộc ngải , ma ngải , ma lai ngải , thiên linh ngải , thâm thanh , hồng hạnh , hùm hổ , nhâm sư chúa tướng , đuôi mọi rợ đợ gồng hổ cảm ứng chứng minh cho già Ba Bụng , 62 tuổi cầu xin ngải thương ngải yêu cho thằng Hai Tiến .

  Khấn xong ông nhìn Hai Tiến cười xòa , Tiến và anh Bảy ôm bụng cười ngất vì cái lối kể chuyện rất là khôi hài của ông Ba Bụng . Tuy cười rang nhưng cả hai lấy làm kính nễ Ba Bụng hết sức . Chuyện dông dài như vậy mà ông vẫn nhớ đã là quá lắm rồi , đàng này cả bài thần chú tiếng Miên tiếng Việt trộn lẫn xà ngầu mà ổng cũng thuộc vanh vách , mới thiệt là đáng kính nễ biết bao nhiêu .

  Đợi tiếng cười của hai người lắng lại , ông Ba Bụng khề khà kể tiếp chuyện luyện ngải của mấy ông ngải sư .

  Khi tác bạch xong thì định thần , bắt ấn niệm chú sên vô chậu ngải . Sên là thổi bùa vào cây ngải . Thông thường thì thời gian luyện khoảng 15 phút mỗi ngày kéo dài như vậy cho đến ba bảy hăm mốt ngày liên tục thì cây ngải đã biết chào thầy . Chào ở đây không phải cây ngải biết nói hay nghe gì cả , thực vật mà . Chào ở đây có nghĩa là khi thầy đọc một câu chú hỏi thăm thì lá ngải đong đưa qua lại về hướng của thầy , mặc dù trong nhà kín mít không có chút gió . Và cứ như vậy , ông thầy tiếp tục luyện dài dài tới chừng nào nhìn thấy có bóng trắng thấp thoáng lúc ẩn lúc hiện thì ngải đã có thần . Trong thời gian này ông thầy phải kiêng cử đủ thứ , đặc biệt là nếu ông thầy nào có thờ bà thầy trong nhà thì càng không nên gần gũi , vì có hơi đàn bà ngải sẽ mất linh đi . Cũng như những món ăn hàng ngày , kỵ nhất là tỏi sống . Bởi tỏi rất nặng về tánh trược , tánh trược mà nhà Phật liệt chúng vào hàng ngũ vị tân tức tỏi , hành , hẹ , nén và kiệu .

  Và cứ điều đặn đọc thần chú , thổi bùa mỗi ngày như vậy , thời gian càng lâu , công càng dày thì công lực của cây ngải càng mạnh . Mỗi tháng vào ngày mùng 2 và 16 phải làm lễ cúng ngải y như cúng binh tướng vậy . Cho đến một ngày thấy ngải đã đủ mạnh , ông thầy mới chọn ngày để thâu ngải . Ngày thâu ngải tuy là ngày quan trọng nhưng cũng như mọi hôm , cũng nhang đèn , trứng gà , gạo nổ và đọc thần chú lễ bái cúng vái một hồi , tới chừng tàn cây nhang ông thầy mới đào gốc lấy củ mang vô nhà . Việc đầu tiên là rửa sạch , lấy một củ bỏ vô miệng nhai nuốt liền . Theo lời thầy nói thì phải làm như vậy ngải nó mới mến và phục tùng thầy lâu dài .

  Sau những nghi thức cúng bái , ăn một củ thì những củ còn lại thầy để vào dĩa đặt lên bàn thờ binh tướng đối diện với bàn thờ tổ . Tới lúc nầy thì bắt đầu đọc loại thần chú kêu ngải ở với mình . Ngải vốn là loại linh , tính ý giống y như một cô gái mới lớn , dịu dàng nhút nhát , nũng nịu e dè chớ không có giống như mấy bà có chồng thường để lộ cái sự hung dữ nhất trần đời ra ngoài , đặc biệt là đối với người chồng chung chăn chung gối . Vì vậy khi luyện , ông thầy phải nhẩn nại tối đa , phải dổ ngọt , lắm lúc phải vuốt ve thủ thỉ . Nói chung , phải đối xử thật tế nhị như cô tình nhân mới quen . Bởi vậy đa số các ông ngải sư cao tay từ trước tới giờ đều phải sống cô độc , không vợ không con . Mấy ông sợ nếu các nàng ngải mà biết mình lấy vợ là hè nhau vật chết hoặc phá cho vợ thầy đau rề rề trị hoài không hết . Đã nói ngãi là một loại thực vật rất linh , chúng cũng biết cả hỉ nộ ai ái ố thì chuyện ghen tương cũng là chuyện thường tình thôi mà .

  Các loại ngải ở nước ta và các nước lân cận như Miên , Thái lan , Lào đều là ngải cùng một loại nhưng tên tuổi thì tùy theo vùng , theo thổ âm địa phương khác nhau mà gọi . Ở Việt Nam mình thì có những loại thường nghe như : nàng thâm , nàng mun , nàng xoài , nàng gù , nàng trăng , nàng hồng v.v.

  Có nhiều ngải sư không luyện ngải trong chậu mà lại luyện ngải trong vườn . Mấy ngài trồng cả vườn với đủ loại đủ cở . Ai nói nuôi ngải không tốn kém là chưa biết gì về ngải . Tốn lắm , ông thầy nuôi ngải phải là người thừa tiền lắm bạc mới dám nuôi một lần cả vườn như thế . Bởi vì khi ngải lên cao , trổ thành cả một vườn bông dầy đặc thì phải cúng cho nó ăn thường xuyên hơn . Tính con số gạo nổ với hột gà , hai món ăn khoái khẩu của ngải thì một ngày ít nhất cũng bộn bạc rồi . Có nhiều thầy còn chơi nuôi ngải tà như huyết nhân ngải , thiên linh ngải , khô lâu ngải v.v . Loại ngải này chúng chuyên ăn gà sống nguyên con . Mỗi lần cho ăn , thầy phải đọc bài “túc thần chú” rồi mới quăng từng con gà còn sống nhăn vào trong những bụi ngải . Cả vườn ngải bổng chuyển động xoay tròn , như gió mạnh lốc xoáy vào đám lúa ở giữa ruộng . Con gà kêu oang oác một hồi thì chỉ còn đám lông và bộ xương . Thịt và máu của chúng đã bị ngải nuốt hết không còn chừa lại chút nào . Thiệt là thấy ớn .

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro