Chương Bảy + Chương Tám

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương Bảy

NỮ TU SĨ Maji

I

        Ngày 2 tháng 12, bà HPB và tôi, cùng với bạn Damodar và em Babula đáp chuyến xe lửa đi Allahabad để viếng thăm ông bà Sinnett mà trước đây chúng tôi chỉ mới có giao dịch bằng thơ từ chứ chưa từng được quen biết tận mặt.

        Sau hai ngày ngồi trên xe lửa, sáng sớm ngày thứ ba, chúng tôi đến Allahabad và được ông Sinett đến đón tại nhà ga cùng với một cỗ xe song mã với người đánh xe và hai người hầu bổn xứ mặc đồng phục rất đẹp. Bà Sinett tiếp đãi chúng tôi tại nhà với một cung cách vô cùng lịch sự, và trước khi bà nói chuyện với chúng tôi được trên mười câu, chúng tôi biết ngay rằng mình đã có một người bạn quý.

        Trong số các vị khách nhà ông Sinett ngày hôm ấy, có một vị Thẩm Phán Thượng Thẩm và ông Giám Đốc Nha Học Chính. Ông bà A.O.Hume đến vào ngày hôm sau và bà Gordon đến vào ngày mùng bảy, sau khi đã đi một chuyến hành trình rất dài để đến gặp bà Hpb. Lần lần chúng tôi đã có dịp quen biết với phần đông những nhân vật Anh Ấn của thành phố nầy, họ cũng đáng được làm quen vì họ tỏ ra khôn ngoan lịch thiệp và tâm hồn cởi mở.

        Vài người trong số đó có cử chỉ rất khẩn khoản, ân cần và dễ thương, nhưng thu hút chúng tôi nhiều nhất là ông bà Sinett và Gordon phu nhân, bà nầy hồi đó đang ở vào thời kỳ xuân sắc lộng lẫy và trí óc thông minh chói rạng. Tôi nghĩ rằng thật là không uổng công lặn lội sang tận xứ Ấn Độ, mà được quen biết với ba người nầy.

        Theo một quy ước chặt chẽ trong các giới xã hội thượng lưu Anh Ấn, người mới đến xứ nầy thường đi viếng thăm xã giao những nhân vật hiện đang cư trú tại địa phương, nhưng vì bà HPB không muốn đi thăm ai cả, nên ai muốn làm quen với bà phải bỏ cái tập quán kia đi, và tự họ đích thân đến viếng bà khi nào họ muốn.

        Thời gian chúng tôi ở tại đây luôn luôn có khách đến viếng, ngoài ra còn có những buổi dự tiệc tiếp tân, trong một dịp nầy tôi còn nhớ rõ đã xảy ra một chuyện lý thú. Một buổi chiều, ông bà Sinett, bà HPB và tôi cùng lên xe đi dự một buổi cơm tối, xe chạy ngang qua một khu phố hãy còn xa lạ đối với chúng tôi. Đến một ngã tư, bà HPB bỗng nhiên rùng mình một cái, và nói:

        -Lạ quá! Thật là một cảm giác rùng rợn! Ở chỗ nầy hình như đã có xảy ra một vụ tàn sát đẫm máu.

        Ông Sanett hỏi:

        -Bà không biết đây là chỗ nào hay sao?

        Bà đáp:

        -Không! Làm sao tôi biết được, vì đây là lần đầu tiên mà tôi đi ra khỏi nhà ông.

        Khi đó, ông Sanett đưa tay chỉ một ngôi dinh cơ đồ sộ ở phía tay mặt chúng tôi, và nói cho bà biết rằng trước đây, đó là câu lạc bộ của quân đội, và chính tại đó các sĩ quan Anh của một lữ đoàn quân Anh Ấn đã bị các thuộc viên của họ thảm sát trong bữa ăn trong cuộc nổi loạn của quân bổn xứ. Nhân dịp đó, bà HPB giảng cho chúng tôi nghe một bài thuyết pháp ngắn nhưng vô cùng hữu ích về tính cách trường cửu bất diệt của Ký Ức Không Gian, có tác dụng ghi nhận trải qua thời gian không bao giờ mất, nhất cử nhất động cùng tất cả mọi hành vi của con người trên Tiên Thiên Khí Ảnh.

        Qua ngày hôm sau, tôi thuyết trình trước một cử tọa đông đảo về đề tài: “Thông Thiên Học và những mối liên hệ của nó đối với xứ Ấn Độ”. Ngồi trên ghế chủ tọa cuộc họp, là ông A.O.Hume, một luật gia nổi tiếng, ông đã khai mạc buổi thuyết pháp và giới thiệu diễn giả bằng một bài diễn văn rất hay và rất hùng hồn làm cảm động người nghe.

        Ngày 15 tháng 12, chúng tôi từ giã ông bà Sinett và cùng bà Gordon đáp xe lửa đi Ba Nại La (Bénarès). Đến nơi vào lúc bốn giờ chiều, chúng tôi được vị đại diện của Quốc Vương Vizianagram đón tiếp tại nhà ga và mời chúng tôi về ở tại một tòa lâu đài của Quốc Vương với tư cách là tân khách của ngài.

II

          Ngày hôm sau, sau khi ăn điểm tâm, chúng tôi lên xe để đến viếng đạo viện của bà Maji, một vị nữ tu sĩ rất nổi tiếng, làu thông kinh điển Phệ Đà, ở một động đá dưới hầm của đạo viện, trên bờ sông Hằng cách thành phố Ba Lại La độ hai dặm. Bà thừa kế đạo viện nầy của thân phụ bà, vốn là một người Yogi, cùng với một ngôi nhà trong thành phố và một thư viện Phạn Ngữ rất phong phú và quý giá.

        Đó là một nơi ẩn cư rất tĩnh mịch, nhất là vào buổi sáng sớm, và rất thuận lợi cho việc công phu thiền định. Tọa lạc trên bờ sông độ mười lăm thước cao hơn mặt nước, và che khuất dưới những lùm cây cổ thụ, thật là một nơi đạo viện lý tưởng có phong vị thần tiên khi chúng tôi ngồi trên bệ đá dưới những gốc hòe nở hoa đỏ thắm, cành lá sum suê rậm rạp, và luận đàm về Đạo Lý với nhà nữ tu trí thức nầy. Đó là một trong nhiều kinh nghiệm kỳ thú nhất của chúng tôi trên đất Ấn Độ, mà người quen sống ở các xứ Tây Phương không bao giờ có thể ngờ trước được.

        Hối ấy, bà Maji trạc độ bốn mươi tuổi, máu da lợt, với một phong độ trang nghiêm và cốt cách lịch sự nó làm cho người ta phải kính nể. Bà có một giọng nói dịu dàng, gương mặt và thân hình đầy đặn, đôi mắt tinh anh biểu lộ sự thông minh và đức tính quả cảm, cương nghị. Bà từ chối không chịu biểu diễn phép thuật thần thông, như chúng tôi vẫn luôn luôn yêu cầu các nhà đạo sĩ trong những dịp tương tự.

        Những lý do từ chối của bà đều được tất cả các bạn trong nhóm chúng tôi chấp nhận là đầy đủ, và cuộc thăm viếng vẫn có ảnh hưởng thuận lợi cho tất cả mọi người. Tôi không biết rằng bà có thể làm các hiện tượng hay không, nhưng vốn là một tín đồ chân chính của triết học Vedanta, bà mạnh dạn chỉ trích sự dại khờ của những kẻ ham mê những trò chơi tương đối ấu trĩ ấy, thay vì để tâm hồn được yên tĩnh vắng lặng mà đạo lý cổ truyền từ nghìn xưa vẫn luôn luôn khuyên nhủ các môn sinh trên đường tầm Đạo.

        Dù đi đến bất cứ nơi nào trên đất Ấn Độ, người ta luôn luôn có cái quan niệm đó, những nhà tu khổ hạnh cao siêu nhất vẫn luôn luôn từ chối không biểu diễn những quyền năng thần bí trừ phi trong những trường hợp rất đặc biệt. Những người làm các phép thuật nhiệm mầu bị coi như thuộc hạng thấp kém, chẳng hạn như các nhà phù thủy bên hắc phái, họ chỉ được sự bảo trợ và trọng vọng của những người thuộc giai cấp hạ tiện.

        Vài ngày sau, vị nữ tu Maji đến viếng thăm trả lễ bà HPB. Việc ấy gây sự ngạc nhiên trong các giới Ấn Độ, và chúng tôi được cho biết rằng thật là một điều rất lạ thường mà thấy vị nữ tu nầy đích thân đến viếng một người nào ngoài tôn sư của bà, còn việc đến thăm viếng một người Âu thì không bao giờ. Tôi cảm thấy một sự say mê thích thú về nữ tu sĩ nầy do những chuyện mà tôi đã nghe kể lại về thành tích của bà, và thật sự tôi đã đến viếng bà mỗi khi có dịp ghé qua thánh đại Ba Nại La; lần cuối cùng với bà Annie Besant và nữ bá tước Wachtmeister.

        Trong nhiều năm, tôi vẫn tin bà là một siêu nhân. Trong cuộc viếng thăm của bà lúc ấy, bà vẫn là một người hoàn toàn xa lạ đối với chúng tôi, và theo chỗ chúng tôi biết không một người nào đã từng nói cho bà biết chúng tôi là ai, trừ ra chúng tôi tự giới thiệu trong dịp đến viếng đạo viện của bà lần đầu tiên. Tuy vậy, bà đã nói cho các bạn đạo cùng đi với tôi, trong một dịp bà HPB vắng mặt, nghe một chuyện dị kỳ về bà HPB. Bà nói rằng thể xác của bà HPB đã được một nhà đạo sĩ Yogi mượn tạm vì mục đích phổ biến Triết Học Đông Phương. Đó là cái thể xác thứ ba mà nhà đạo sĩ đã dùng vào mục đích ấy, và thời gian y đã trải qua trong ba cái thể xác đó, cộng chung lại tất cả là độ một trăm năm mươi năm.

        Trong một chuyến đi Calcutta nhiều năm sau đó, tôi đã đến khu ngoại ô Bhowanipore để viếng Maji, trong dịp bà từ Ba Nại La đến đây để viếng thăm một bạn đạo là Nobin Bannerji ở tại nhà ông nầy. Tôi đã hội kiến với bà hằng ngày trong thời gian hai tuần ở Calcutta, và luôn luôn rất thích thú mà nghe lời thuyết giáo của bà.

        Bà lúc nào cũng có một số người tầm Đạo vây phủ chung quanh, và những lời giải đáp thắc mắc của bà luôn luôn biểu lộ một học lực uyên thâm và sâu sắc. Phong thái hấp dẫn và giọng nói dễ mến của bà làm cho bà càng thêm đắc nhân tâm và có nhiều người ngưỡng mộ. Sau hết, còn có sự hấp dẫn  của những quyền năng thần bí, thường được gán cho những đạo sĩ chân tu ở Ấn Độ, một di sản còn sót lại của những truyền thống từ những thời đại cổ xưa.

        Những quyền năng đó, bà Maji hẳn là phải có đến một mức độ nào, bởi vì chúng ta đã thấy rằng lần gặp gỡ đầu tiên giữa bà với chúng tôi hồi năm 1879, trước khi người ta được biết gì về sự liên hệ giữa bà HPB với hai vị Chân Sư, bà Maji đã nói với tôi những điều về các Ngài mà không ai có thể nói lại cho bà biết, và trong tập Nhật Ký của bạn Damodar có ghi rằng bà đã làm cho y vô cùng ngạc nhiên với những lời tiết lộ của bà về nhà huyền học T. Subba Rao và về những nhân vật khác nữa.

        Sau khi bà Maji từ Calcutta trở về đạo viện của bà ở Ba Nại La, chúng tôi đã có dịp trở lại viếng thăm bà lần nữa, nhưng không ngờ đây là lần chót vì sau đó ít lâu, chúng tôi được tin bà đã từ trần.

 III

          Khi chúng tôi trở về Bombay, một buổi chiều tà, bà HPB, bạn Damodar và tôi đã trải qua một kinh nghiệm lạ lùng, mà trước đây tôi đã có kể lại sơ lược bằng trí nhớ, nhưng bây giờ nó phải được tường thuật lại với đầy đủ chi tiết vào đúng chỗ của nó.

        Chúng tôi ba người ngồi trên chiếc xe ngựa mui trần mà Damodar đã làm quà tặng cho bà HPB, nhắm về phía cầu Warli gần bờ biển để hóng gió mát. Một cơn giông có sấm chớp đang diễn ra từ đằng xa nhưng không có mưa, những tia chớp nối tiếp nhau thường xuyên một cách sống động đến mức chiếu sáng cả vùng lân cận như ban ngày. Bà HPB và tôi ngối hút thuốc và cả ba chúng tôi đều cùng nhau đàm luận việc nầy viếc nọ, bỗng nghe có tiếng nói chuyện của nhiều người từ trên bờ biển đi về phía tay mặt chỗ chúng tôi ngồi. Ngay khi đó, xuất hiện một nhóm người Ấn ăn mặc lịch sự vừa nói vừa cười đùa với nhau, họ đi qua khỏi chỗ chúng tôi và lên xe riêng của họ đậu thành hàng trên đường Warli, rồi chạy về thành phố. Để nhìn theo, bạn Damodar, đang ngồi quay lưng về phía ngưới đánh xe, mới đứng dậy và ngước mắt nhìn lên thùng xe. Khi đoàn người cuối cùng từ bờ biển đi lên vượt ngang qua xe chúng tôi, y lẳng lặng sờ nhẹ vào vai tôi và hất đầu làm hiệu cho tôi nhìn về hướng ấy. Tôi đứng dậy và thấy đằng sau nhóm người cuối cùng đi hóng gió biển trở về, một bóng người lẻ loi bước đến gần chúng tôi. Cũng như những người kia, người nầy mặc sắc phục trắng, nhưng sắc trắng của y phục nầy vượt trội hẳn làm cho y phục của những người kia có vẻ như màu xám, cũng ví như ánh sáng đèn điện làm cho ngọn đèn hơi sáng tỏ nhất cũng hóa ra đục mờ. Người nầy vóc vạc cao hơn nhóm người kia đến một cái đầu, và dáng đi của người quả thật là biểu lộ một cốt cách thần tiên. Người ấy bước đến gần, tách rời khỏi đường lộ và đi về phía chúng tôi, khi ấy chúng tôi mới nhận ra Ngài là một vị Chân Sư. Cái khăn trắng bịt đầu, chiếc áo rộng trắng, mái tóc đen xỏa xuống vai và bộ râu đen, mới thoạt nhìn chúng tôi tưởng là đức “Sư Phụ”, nhưng khi Ngài bước đến bên hông xe và chỉ cách chúng tôi độ một thước, Ngài  đặt nhẹ bàn tay Ngài lên cánh tay trái của bà HPB lúc ấy đang gác trên thùng xe, nhìn chúng tôi vào tận mắt, và đáp lại sự kính cẩn vái chào của chúng tôi, chừng đó chúng tôi mới biết không phải là Sư Phụ, mà là một vị Chân Sư khác. Bà HPB về sau có một bức chân dung của Ngài lồng trong một cái khuôn vàng bà đeo trước ngực mà nhiều người đã từng thấy.

        Ngài không nói một lời nào, mà lẳng lặng đi về phía đường lộ, không màng chú ý đến những người du ngoạn khi họ ngồi trên xe chạy về thành phố. Những tia chớp liên tục của cơn giông chiếu sáng thân hình Ngài khi Ngài đứng bên cạnh chúng tôi, và khi Ngài đã đi trên con đường đá cách xa chúng tôi độ hai mươi thước, tôi nhận thấy rằng ánh đèn trên chiếc xe cuối cùng rọi lại làm cho thân hình Ngài nổi bật trên bối cảnh chân trời ở đàng xa. Không có cây cối hay bụi rậm nào che khuất Ngài khỏi tầm mắt chúng tôi, nên chúng tôi vận hết nhỡn lực để theo dõi động tác của Ngài. Chúng tôi vừa mới nhìn thấy Ngài đây, thì trong khoảnh khắc Ngài đã biến mất dạng, cũng như một tia chớp sáng lòe rồi vụt tắt. Dưới sự phản ứng của cơn xúc động bàng hoàng, tôi nhảy vọt ra ngoài xe, chạy đến chỗ mà tôi nhìn thấy Ngài lúc nãy, nhưng không thấy gì nữa. Tôi chỉ nhìn thấy có con đường lộ vắng teo, và phía sau lưng của chiếc xe vừa chạy qua.

Chương tám

ĐẠO SƯ DYANAND SARASWATI NÓI VỀ

PHÁP MÔN YOGA

       Ngày 27 tháng 8 năm ấy, bà HPB và tôi cùng với đứa hầu trai Babula lại đáp chuyến xe lửa đêm từ Bombay đi lên miền Bắc. Đến thị trấn Meerut, chúng tôi được toàn thể chi bộ của môn phái Arya Samaj tại địa phương đến tiếp đón tại nhà ga, và đưa chúng tôi về trụ sở của họ. Tại đây, chúng tôi đã gặp lại Đạo Sư Dyànand Saraswati, nhà lãnh đạo tinh thần của môn phái Arya Samaj đã nói ở trên.

        Trước sự có mặt của các tín hữu trong môn phái ông, chúng tôi mở một cuộc thảo luận nhằm biết rõ quan điểm thật sự của ông về pháp môn Yoga và về những quyền năng tâm linh siêu đẳng của con người.

        Chúng tôi được biết rằng những giáo lý của ông dạy các tín hữu khuyến cáo họ không nên thực hành pháp môn khổ hạnh, và thậm chí còn gieo sự nghi ngờ về sự thật của các quyền năng thần bí; trái lại, trong những cuộc đàm thoại với chúng tôi trước đây ông lại có một luận điệu khác hẳn. Cuộc phỏng vấn của tôi lần nầy đã được các tín hữu trong môn phái ghi chép lại đúng y nguyên văn mà tôi xin thuật lại như dưới dây:

        “… Câu hỏi đầu tiên đưa ra cho Thầy (Swami) là: Pháp môn Yoga phải chăng là một khoa học thật nghiệm, hay chỉ là một giả thuyết siêu hình; và đạo sư Patanjali có cho rằng người ta có thể đạt được những quyền năng thần bí hay không? Và đã có ai đạt được những quyền năng ấy hay chưa?

        Thầy đáp rằng pháp môn Yoga có thật và căn cứ trên sự hiểu biết những định luật Thiên Nhiên.

        Câu hỏi kế tiếp là những quyền năng siêu đẳng, hiện nay người ta còn có thể sở đắc được hay không, hay là thời kỳ ấy nay đã qua rồi?

        Câu trả lời là những định luật Thiên Nhiên vốn không dời đổi và không bị giới hạn trong thời gian và không gian: những gì người ta đã làm được trong quá khứ đương nhiên cũng vẫn áp dụng trong hiện tại. Không những ngày nay người ta có thể làm tất cả những gì đã được diễn tả trong các sách cổ xưa, mà chính Thầy (Swami) có thể truyền dạy các phương pháp ấy cho bất cứ người nào thật tình mong ước đi vào con đường ấy.

        Có nhiều người đã đến xin thụ giáo Swami và quả quyết rằng họ có khả năng đạt tới sự thành công; Thầy đã thử hết ba người, nhưng tất cả đều thất bại. Lúc đầu họ tỏ ra có nhiều thiện chí, nhưng không bao lâu họ đâm ra chán nản và bỏ cuộc. Yoga là một khoa học khó khăn nhất, và ngày nay rất ít người có thể sở đắc được.

        Câu hỏi tiếp theo là ngày nay còn có chăng những đạo sĩ Yoga chân chính, có thể làm những hiện tượng nhiệm mầu như đã diễn tả trong các sách cổ Ấn Độ.

        Thầy đáp rằng những vị đạo sĩ ấy ngày nay vẫn còn, nhưng rất hiếm. Họ ẩn cư ở những nơi hẻo lánh, và ít khi, hay không bao giờ xuất hiện ở những nơi công cộng. Họ không bao giờ tiết lộ những bí quyết của họ cho kẻ thế nhân phàm tục, cũng không truyền dạy bí pháp của họ, trừ phi cho những người mà họ nhận thấy là xứng đáng sau nhiều cơn thử thách.

        Đại Tá Olcott hỏi rằng phải chăng những vị Chân Sư luôn luôn khoác bộ áo vàng của nhà tu sĩ xuất gia như người ta thường thấy, hay cũng mặc y phục như thường?

        Thầy đáp rằng các Ngài có thể mặc mọi thứ sắc phục thích nghi tùy nhu cầu của hoàn cảnh.

        Đáp lời yêu cầu cho biết người đạo sĩ chân tu có những thứ quyền năng nào? Thầy nói rằng ngưới Yogi chân chính có thể làm những việc mà người thế gian gọi là những phép lạ. Không cần phải nêu ra những loại quyền năng nào, vì trên thực tế quyền năng của y chỉ bị giới hạn bởi lòng mong muốn và sức mạnh của ý chí.

        Chẳng hạn như y có thể giao cảm bằng tư tưởng với những vị đạo sĩ khác dù họ ở cách nhau bao xa trong không gian, và không cần xử dụng những phương tiện viễn thông thường lệ như thư từ hay điện tín. Y có thể đọc tư tưởng của người khác. Y có thể di chuyển (trong Chân Ngã của y) từ một nơi nầy đến một nơi khác, không cần sử dụng những phương tiện chuyên chở thông thường, và với một tốc độ mau chóng hơn nhiều. Y có thể đi trên mặt nước hay trên không trung; vượt cao khỏi mặt đất. Y có thể xuất hồn ra khỏi xác và nhập vào thể xác một người khác, trong một thời gian ngắn hay trong nhiều năm tùy ý muốn. Y có thể kéo dài sự sống của thể xác bằng cách xuất hồn trong giấc ngủ, và do đó bằng cách tiết giảm những hoạt động của cơ thể đến mức tối thiểu, y tránh được một phần lớn sự già nua. Thời gian dùng trong việc ấy sẽ cộng vào và tăng thêm tổng số thời gian sinh tồn tự nhiên của thể xác trong kiếp sống hiện tại.

        HỎI:Cho đến ngày, giờ, nào của cuộc đời y, người Yogi có thể sử dụng quyền năng chuyển di Linh Hồn hay Chân Ngã của y qua thể xác của một người khác?

        ĐÁP:Cho đến giờ phút chót, chí đến từng giây cuối cùng. Người Yogi biết trước, chí đến từng giây đồng hồ, lúc nào y phải chết, và cho đến khi đó, y có thể xuất hồn để nhập vào thể xác một người khác nếu có một thể xác sẵn sàng cho y chiếm đóng. Nhưng nếu y để cho cái giây phút đó trôi qua, thì chừng đó y sẽ không thể làm gì được nữa. Sợi dây bạc đã bị đứt đoạn vĩnh viễn, và nếu người Yogi chưa được tinh luyện đầy đủ đến mức toàn thiện để đạt tới sự Giải Thoát, thì y phải tái sinh trở lại theo định luật Luân Hồi. Sự khác biệt duy nhất giữa trường hợp của y với trường hợp thông thường của mọi người là vì y đã có công phu tu luyện trong kiếp nầy để trở nên tốt lành hơn, thông tuệ hơn và minh triết hơn người thường, nên y sẽ được tái sinh trong những hoàn cảnh thuận lợi hơn.

        HỎI:Người Yogi có thể nào kéo dài sự sống của y tới mức độ nầy chăng:chẳng hạn như kiếp sống hiện tại của y đã định là bảy mươi tuổi; trước khi chết, y có thể nào nhập xác một đứa trẻ lên sáu tuổi, sống trong cái thể xác đó thêm một kỳ hạn bảy mươi năm nữa, rồi chuyển di tứ cái thể xác đó qua thể xác một đứa trẻ khác, và sống trong đó thêm một kỳ hạn bảy mươi năm nữa?

        ĐÁP:Y có thể, và bằng cách đó y có thể kéo dài sự sống của y trên thế gian đến một thời hạn độ chừng bốn trăm năm.

        HỎI:Người Yogi có thể nào chuyển di bằng cách đó từ thể xác của y qua thể xác của một người đàn bà?

        ĐÁP:Cũng như người ta có thể khoác lấy y phục đàn bà một cách dễ dàng, người Yogi có thể nhập vào thể xác của một người nữ. Chừng đó, xét về hình dáng và cử chỉ bên ngoài, thì y là một người nữ, nhưng xét về phần nội tàng bên trong,y vẫn là một người Yogi.

        HỎI:Tôi đã gặp hai người như vậy; nghĩa là hai người nữ xét về hình dáng bề ngoài, nhưng hoàn toàn có tính chất đàn ông trong mọi sự trừ ra cái thể xác. Một trong hai người ấy, ông có nhớ chăng, trước đây chúng ta đã có dịp cùng đi viếng thăm tại Ba Nại La, trong một đạo viện trên bờ sông Hằng.

        ĐÁP:À, nữ tu sĩ Maji.

        HỎI:Pháp môn Yoga có tất cả mấy thứ?

        ĐÁP:Có hai loại pháp môn Yoga, luyện thể xác (Hatha Yoga) và luyện tinh thần (Raja Yoga). Trong pháp môn Hatha Yoga, người hành giả công phu luyện xác một cách rất khổ hạnh nhằm mục đích bắt thể xác phải tuân theo mệnh lệnh của Ý Chí. Còn Raja Yoga là một pháp môn tu luyện khiến cho Ý Chí được phát triển mạnh mẽ đến mức làm chủ được tinh thần. Pháp môn Hatha Yoga đem lại những kết quả thể chất, còn Raja Yoga giúp hành giả phát triển những khả năng tâm linh. Người hành giả nào muốn được thành thục về pháp mônRaja Yoga, phải đã có trải qua công phu tu luyện Hatha Yoga.

        HỎI: Phải chăng có những người đã sở đắc những quyền năng tâm linh siêu đẳng của pháp môn Raja Yoga, mà không hề trải qua giai đoạn khổ luyên xác thân theo Hatha Yoga? Tôi đã gặp ba người như vậy ở Ấn Độ, và chính họ đã cho tôi biết rằng họ không hề khổ luyện xác thân.

        ĐÁP:Nếu vậy, thì họ đã có tu luyện theo pháp môn Hatha Yoga trong kiếp trước.

        HỎI:Xin ông vui lòng giải thích làm sao người ta có thể phân biệt những hiện tượng nào là thật hay giả khi được tạo nên bởi một người mệnh danh là Yogi?

        ĐÁP:Những hiện tượng lạ gồm có ba loại: loại thấp nhất được tạo ra bằng sự lanh lẹ của bàn tay, như ta thường thấy trong những màn trình diễn ảo thuật hay trong các gánh xiếc; loại thứ nhì, bằng cách sử dụng hóa chất hay những máy móc dụng cụ; loại thứ bavà cao nhất, bằng những quyền năng thần bí của con người.

        Việc tạo nên những trò lạ mắt làm cho cử tọa ngạc nhiên do bởi hai phương pháp đầu tiên, và được tuyên bố giả dối như những hiện tượng siêu nhiên hay phép lạ, gọi là tamasha, hay sự phỉnh gạt bất lương. Nhưng nếu những hiện tượng đó được người ta đưa ra một sự giải thích đúng đắn và chân thật thì chừng đó chúng ta được coi như sự biểu diễn xảo thuật khoa học hay kỹ thuật. Chỉ có những hiện tượng tạo nên bởi việc sử dụng ý chí đã được tập luyện thành thục của con người, không tùy thuộc các đồ máy móc, dụng cụ, mới là thuộc pháp môn Yoga chân chính.

        HỎI:Xin định nghĩa tính chất của Linh Hồn con người.

        ĐÁP:Linh Hồn (Atmà) con người gồm hai mươi bốn thứ khả năng, trong số đó có ý chí, hành động, kiến thức, ký ức sắc bén,v.v… Khi nào tất cả những khả năng đó được đem ra tác dụng ở ngoại giới, người chủ động tạo nên những hậu quả được xếp hạng dưới cái chủ đề là Khoa Học Vật Lý.

        Khi người ấy đem áp dụng chúng vào nội tâm, hay thế giới nội tàng, thì đó là Triết Học Tâm Linh, hay Yoga nội môn. Khi hai người nói chuyện với nhau từ hai nơi cách biệt nhau rất xa bằng điện thoại, thì đó là họ sử dụng kiến thức khoa học; khi nào họ giao tiếp với nhau không phải bằng máy móc dụng cụ mà bằng cách sử dụng kiến thức về những giòng từ điện và sức mạnh thiên nhiên, thì đó là kiến thức Yoga. Cũng chính do kiến thức Yoga mà nhà thuật sĩ làm cho những đồ vật thuộc bất cứ loại nào được đem tới cho y từ một nơi cách xa, và ngược lại, gửi những đồ vật ấy từ chỗ của y đi đến bất cứ nơi nào, trong cả hai trường hợp đều không dùng những phương tiện chuyên chở như xe,tàu,v.v… Người xưa vẫn từng biết rõ những định luật hấp dẫn và xô đẩy của tất cả mọi sự vật trong Thiên Nhiên, tác động hỗ tương giữa chúng với nhau, và những hiện tượng thần thông mầu nhiệm trong pháp môn Yoga đều căn cứ trên sự hiểu biết đó. Ngưới Yogi có thể thay đổi hay tăng cường những sức mạnh hấp dẫn và xô đẩy đó tùy ý muốn.

        HỎI:Người hành giả muốn sở đắc những quyền năng đó phải có những điều kiện tiên quyết như thế nào?

        ĐÁP:Đó là:

        1.-Sự ước muốn học hỏi. Lòng ước vọng đó phải mãnh liệt cũng giống như của người sắp chết đói mong có thức ăn, hay người khát thèm nước uống.

        2.-Hoàn toàn làm chủ mọi thứ đam mê và dục vọng.

        3.-Sự trinh khiết; giao du với những bạn bè tốt và có đức hạnh; ăn uống chay tịnh, chỉ dùng những đồ vật thật trong lành, tinh khiết; nơi ăn chốn ở phải thanh tịnh sạch sẽ, không bị ô nhiễm bởi những ảnh hưởng xấu xa ô trược bất cứ loại nào; không khí trong sạch; ở nơi vắng vẻ.

        Hành giả phải có trí óc thông minh, để có thể hiểu biết những định luật Thiên Nhiên; phải biết tập trung tư tưởng, để cho khỏi bị lo ra và trí lực phân tán trong cơn thiền định: và phải biết tự chủ, để kiểm chế mọi thứ đam mê, dục vọng. Y phải diệt trừ năm điều sau đây: Vô Minh, Tự Kiêu Ngã Mạn, Dâm Dục, Ích Kỷ và Sợ Chết.

        HỎI:Như vậy, phải chăng ông không tin rằng người Yogi hành động trái với những định luật tự nhiên?

        ĐÁP:Không khi nào; bởi vì không có gì xảy ra mà trái với những định luật Thiên Nhiên. Do pháp môn Hatha Yoga, người ta có thể thực hiện vài loại hiện tượng nhỏ, chẳng hạn như tập trung tất cả sinh lực của mình vào trong một ngón tay, hoặc, trong cơn thiền định, biết được những tư tưởng của người khác.

        Bằng pháp môn raja Yoga, hành giả trở nên có phép thần thông; y có thể làm bất cứ việc gì tùy ý muốn, và biết bất cứ điều gì y muốn biết, chí đến những ngôn ngữ mà y chưa bao giờ học. Nhưng tất cả những việc ấy đều hoàn toàn phù hợp với những định luật tự nhiên.

        HỎI:Đôi khi tôi được thấy những vật thể vô tri như thư từ, tiền đồng hay kim loại, bút chì, đồ nữ trang,v.v… được tạo ra thành những phó bổn thứ nhì ngay trước mắt tôi. Làm sao giải thích điều đó?

        ĐÁP: Trong không gian có chứa đựng những nguyên tử của mọi vật thể hữu hình trong một trạng thái vô cùng tế vi. Người Yogi biết tập trung những nguyên tử đó bằng cách sử dụng Ý Chí, và tượng hình những vật thể đó theo kiểu mẫu mong muốn bằng trí óc sáng tạo của mình.

        Đến đây, Đại Tá Olcott hỏi vị Swami có ý kiến gì về những hiện tượng thần thông mà bà HPB đã làm từ trước đến nay trước sự có mặt của nhiều nhân chứng, chẳng hạn như bà làm cho những hoa hường rơi xuống như mưa từ trên trần nhà trong một phòng khách ở Bénarès hồi năm ngoái, gây tiếng chuông reo trong không khí, làm cho ngọn lửa trong một cây d8en2 lu mờ dần cho đến khi hầu như sắp tắt, rồi truyền lệnh cho nó bùng cháy lên cao mà không động đến cái bộ phận vặn bấc đèn,v.v…

        Câu trả lời là: Đó là những phép thuật thuộc lãnh vực của pháp môn Yoga. Vài loại hiện tượng nầy, những người làm trò ảo thuật có thể bắt chước, nhưng những phép thuật của bà HPB không phải thuộc về loại đó.”

        Tôi nghĩ rằng đây là những quan điểm tóm lược đơn giản, rõ ràng, sáng sủa và gợi ý nhất về khoa pháp môn Yoga của Ấn Độ. Người đối thoại của tôi là một trong những nhân vật ưu tú nhất trong giới tu sĩ Bà La Môn, một người học vấn uyên thâm, một nhà tu khổ hạnh đầy kinh nghiệm, một nhà biện thuyết hùng hồn và một người có tinh thần cao nước yêu độ.

        Sau đó ít lâu chúng tôi đã trải qua một giai đoạn khó khăn trong vấn đề giao tế nhân sự với Đạo Sư Dyanand Saraswati. Không có một lý do nhỏ nhặt nào, tự nhiên y có thái độ thù nghịch đối với chúng tôi. Yviet61 cho chúng tôi những bức thư lời lẽ gay gắt, nặng nề; kế đó y đấu dịu lai đôi chút; rồi lần sau y lại đổi giọng, và như thế y đặt chúng tôi vào một tình trạng căng thẳng thường xuyên.

        Sự thật là tờ Tạp Chí của chúng tôi không thể là một cơ quan ngôn luận đặc biệt của môn phái Arya Samai, và chúng tôi cũng không chịu tách rời khỏi các nhóm tín đồ Phật Giáo và Hỏa Giáo, như điều y vẫn mong muốn. Hiển nhiên là y muốn bắt buộc chúng tôi phải chọn lựa một trong hai điều: hoặc là sự tiếp tục bảo trợ của môn phái y; hoặc là sự trung thành với lý tưởng không bè phái của chúng tôi. Và chúng tôi đã chọn lựa.Vì những lý tưởng và nguyên tắc của Hội, chúng tôi không chịu nhượng bộ bất cứ một áp lực nào từ bên ngoài.

        Cũng xin nhắc lại rằng sau những lần tiếp xúc đầu tiên với chi phái Ấn Giáo Arya Samaj, Đạo Sư Dyanand đã cùng tôi thảo luận về những Điều Lệ mới của Hôi Thông Thiên Học. Y đã nhận lãnh một chân trong Hội Đống Quản Trị của Hội, cho tôi có thẩm quyền thay mặt y trong những cuộc biểu quyết của Hội Đồng bằng một văn thư chính thức, và hoàn toàn phê chuẩn kế hoạch của chúng tôi, là dung hòa những phân chi gồm có những tín đồ các giáo phái khac nhau như Phật Giáo, Hỏa Giáo Hồi Giáo Ấn Giáo,v.v…

        Nhưng về sau, tinh thần khoan dung, không bè phái của y đã thay đổi trở thành óc bè phái, độc đoán, và sự thiện chí tốt đẹp của y đối với chúng tôi đã trở thành đố kỵ thù nghịch.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro