Shadow - Chương Ba (2)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

"Em chết rồi. Anh đã đến dự lễ tang em vào chiều nay."

"Ừ." Cô ngưng nói, nhìn chằm chằm vào hư không. Shadow đứng dậy và bước qua cô. Anh lấy điếu thuốc đang cháy dở trên tay cô và ném nó ra ngoài cửa sổ. 

"Vậy?"

Ánh mắt cô tìm kiếm đôi mắt anh. "Em không biết nhiều hơn gì những thứ em đã biết khi em còn sống. Hầu hết những thứ giờ em biết đều là những thứ em từng không biết nên em không thể nói chúng thành lời được."

"Bình thường thì ai chết xong cũng ở yên trong mồ của họ cả," Shadow nói.

"Vậy sao? Thật sự vậy sao, cún con? Em cũng đã từng nghĩ như vậy đấy. Giờ thì em không chắc nữa. Có lẽ vậy." Cô trèo ra khỏi giường và bước tới cửa sổ. Gương mặt cô, trong ánh sáng từ bảng hiệu nhà nghỉ, vẫn xinh đẹp như xưa. Gương mặt của người phụ nữ vì nó anh đã đi tù.

Tim anh đau đớn trong lồng ngực như thể ai đó đã bóp nghẹn lấy nó. "Laura...?"

Cô không nhìn anh. "Anh đã vướng vào vài thứ rắc rối, Shadow. Anh sẽ phá hoại chúng, nếu không có ai đó trông chừng anh. Em sẽ trông chừng anh. Và cảm ơn anh vì món quà nhé."

"Món quà gì?"

Cô cho tay vào túi áo, lấy ra đồng xu vàng anh đã ném xuống mộ cô sớm hôm nay. Vẫn còn một chút đất đen bám trên đó. "Em có thể lồng nó vào một sợi dây. Anh thật tốt bụng."

"Không có gì."

Cô quay lại và nhìn anh với cặp mắt trông như vừa nhìn anh mà vừa không nhìn anh. "Em nghĩ có vài khía cạnh của hôn nhân mà chúng ta sẽ phải cải thiện."

"Cưng à," anh nói với cô. "Em chết rồi."

"Rõ ràng, đó cũng là một trong các khía cạnh cần nói." Cô dừng lại một chút. "Được rồi," cô nói. "Em sẽ đi ngay. Sẽ tốt hơn nếu em đi." Và, một cách tự nhiên và đơn giản, cô quay người và đặt tay mình lên vai Shadow, rồi nhón những ngón chân lên để hôn tạm biệt anh, như cô luôn làm vậy trước đây.

Một cách lúng túng anh cúi xuống hôn lên má cô, nhưng cô di chuyển môi mình khi anh làm vậy và nhấn môi mình lên môi anh. Hơi thở của cô, thoáng qua, có mùi như băng phiến.

Lưỡi Laura trườn vào miệng Shadow. Nó lạnh, khô, có vị của thuốc lá và mật đắng. Nếu Shadow còn nghi ngờ nào về việc vợ anh đã chết hay chưa, những nghi ngờ đó kết thúc ngay tại đây.

Anh đẩy mình ra.

"Em yêu anh," cô nói, một cách đơn giản. "Em sẽ luôn trông chừng anh." Cô bước về phía cửa phòng nhà nghỉ. Có một mùi vị kỳ lạ trong miệng anh. "Ngủ chút đi, cún con," cô nói. "Và tránh xa mọi rắc rối."

Cô mở cửa ra sảnh. Ánh đèn huỳnh quang trong hành lang không đẹp lắm: bên dưới chúng, Laura trông như đã chết, nhưng thật ra, nó khiến mọi người đều trông như vậy.

"Anh đã có thể kêu em ở lại qua đêm," cô nói, bằng chất giọng lạnh như đá.

"Anh không nghĩ là mình có thể đâu," Shadow nói.

"Anh sẽ làm vậy mà, anh yêu," cô nói. "Trước khi tất cả những chuyện này kết thúc. Anh sẽ làm vậy mà." Cô quay đi, và bước xuống hành lang.

Shadow nhìn ra ngoài cửa. Người nhân viên bán hàng đêm vẫn đang đọc cuốn tiểu thuyết John Grisham của mình, hơi đưa mắt lên nhìn khi cô bước qua ông. Có một lớp bùn dày từ nghĩa địa bám trên giày cô. Và rồi cô đi biến mất.

Shadow thở ra, một cái thở dài chậm rãi. Tim anh vẫn đang đập loạn xì ngầu trong lồng ngực. Anh bước qua sảnh và gõ cửa phòng ngài Thứ Tư. Khi anh gõ cửa, anh có một ý niệm kỳ dị, rằng anh đang bị quật qua quật lại bởi một đôi cánh đen, như thể một con quạ khổng lồ đang bay qua anh, qua sảnh nhà nghỉ và ra thế giới ngoài kia. 

Ngài Thứ Tư mở cửa. Ông quấn khăn tắm khách sạn quanh eo, nhưng phần thân trên thì lõa lồ. "Cậu muốn cái quái gì vậy?" ông hỏi.

"Có điều này ông nên biết," Shadow nói. "Có lẽ đây chỉ là một giấc mơ thôi - nhưng không phải - hoặc có lẽ tôi đã hít phải cái thứ khí da cóc tổng hợp của thằng nhóc mập ú kia, hoặc có lẽ tôi chỉ đang phát điên..."

"Ừ, ừ. Nói lẹ ra đi," ngài Thứ Tư nói. "Tôi đang làm dở chút việc."

Shadow liếc vào căn phòng. Anh có thể thấy có ai đó đang nằm trên giường, nhìn anh. Tấm chăn được kéo lên che bộ ngực nhỏ. Tóc vàng nhạt màu, gương mặt giống loài gặm nhấm. Anh hạ giọng xuống. "Tôi vừa thấy vợ mình," anh nói. "Cô ấy đã ở trong phòng tôi."

"Ý cậu là một hồn ma à? Cậu thấy một con ma sao?"

"Không. Không phải ma quỷ. Cô ấy là thật. Đúng là cô ấy. Đúng là cô ấy đã chết, nhưng đây không phải kiểu ma quỷ gì đâu. Tôi đã chạm vào cô ấy. Cô ấy đã hôn tôi."

"Ta hiểu rồi." Ngài Thứ Tư liếc vội cô gái trên giường. "Quay lại ngay, bé cưng," ông nói.

Họ bước qua sảnh để tới phòng Shadow. Ngài Thứ Tư mở đèn. Ông nhìn vào đầu lọc thuốc trong gạt tàn. Ông gãi ngực. Hai núm vú ông sậm màu, lông ngực ông hoa râm. Có một vết sẹo trắng dọc một bên thân mình. Ông hít hít không khí. Rồi ông nhún vai.

"Được rồi," ông nói. "Vậy là cô vợ quá cố của cậu xuất hiện. Cậu sợ chứ?"

"Một chút."

"Khôn lắm. Cái chết luôn cho tôi những tiếng thét. Còn gì khác không?"

"Tôi sẵn sàng rời khỏi Eagle Point rồi. Mẹ của Laura có thể sắp xếp chuyện căn hộ. Dù sao bà ta cũng ghét tôi. Tôi sẵn sàng đi khi nào ông muốn."

Ngài Thứ Tư mỉm cười. "Tin tốt đấy, chàng trai. Chúng ta sẽ đi vào sáng mai. Giờ, cậu nên đi ngủ một chút đi. Ta có chút rượu scotch trong phòng, nếu cậu cần giúp đỡ. Được chứ?"

"Không. Tôi sẽ ổn thôi."

"Vậy thì đừng làm phiền ta thêm nữa. Ta có một đêm dài trước mắt."

"Chúc ngủ ngon," Shadow nói.

"Đúng rồi," ngài Thứ Tư nói, rồi ông đóng cửa lại và bước ra ngoài.

Shadow ngồi xuống giường. Mùi thuốc là và chất bảo quản vẫn còn lưu hương trong không khí. Anh ước gì mình đang thương xót cho Laura: điều đó có vẻ hợp lý hơn là việc bị cô gây rắc rối,  hoặc, việc anh thừa nhận với bản thân rằng cô đã biến mất, chỉ làm anh hơi sợ cô một chút. Anh tắt đèn, nằm lên giường, và nghĩ về Laura lúc anh còn ở trong tù. Anh nhớ cuộc hôn nhân của họ khi còn trẻ, hạnh phúc, ngu ngốc và không thể rời tay nhau.

Đã rất lâu kể từ lần cuối Shadow khóc, lâu đến mức anh nghĩ mình đã quên mất khóc là như thế nào. Anh thậm chí còn không khóc khi mẹ anh qua đời.

Nhưng bây giờ anh bắt đầu khóc, trong đau đớn, nức nở, và lần đầu tiên kể từ khi anh còn là một cậu bé, Shadow tự khóc thiếp đi.

---

ĐẾN HOA KỲ

Năm 813 sau Công Nguyên

Họ đã dong thuyền qua biển xanh nhờ những ngôi sao và bờ biển, đến khi bờ biển chỉ còn là một ký ức và bầu trời đêm trở nên u ám, tối tăm, họ đã chèo lái nhờ đức tin, họ khẩn cầu Cha Cả (All-Father) đưa họ vào bờ an toàn một lần nữa.

Họ đã có một chuyến hành trình tồi tệ, ngón tay tê cóng và xương xẩu rùng mình đến nỗi rượu nóng cũng không thể đốt cháy được. Họ sẽ thức dậy vào mỗi sáng để xem sương muối bám trên hàm râu, và, cho đến khi được mặt trời sưởi ấm, họ trông như những lão già râu trắng thời tiền sử.

Răng lung lay và mắt trũng sâu khi họ cập bến vào một vùng đất xanh ngắt ở phía tây. Lũ người nói, "Chúng ta đang ở xa, xa quê nhà, xa đại dương ta biết và xa đất liền ta yêu. Ngay đây trên rìa thế giới chúng ta sẽ bị lãng quên bởi những vị thần."

Thủ lĩnh của họ trèo lên đỉnh một tảng đá lớn, rồi ông chế giễu họ vì sự thiếu đức tin. "Cha Cả đã tạo ra thế giới," ông hét lên. "Ngài đã xây chúng bằng tay mình từ xương và thịt vụn của Ymir, ông của ngài. Ngài đặt những phần não của Ymir lên bầu trời thành những đám mây, mà máu mặn thành đại dương chúng ta băng qua. Nếu ngài tạo ra thế giới, các ngươi không nhận ra ngài cũng tạo ra mảnh đất này luôn sao? Và nếu các ngươi chết tại đây như những người đàn ông, chúng ta sẽ không được nhận vào nước trời của ngài hay sao?"

Lũ đàn ông hò reo và cười lớn. Họ quyết định xây dựng một hội trường bằng bùn đất và những thân cây được chẻ đôi, bên trong một hàng rào nhỏ bằng gỗ được gọt sắc, mặc dù theo như họ biết họ là những người duy nhất ở vùng đất mới này.

Vào ngày hội trường được hoàn thành có một cơn bão: bầu trời giữa trưa trở nên tối sầm như đêm, bị xé toạc ra bởi những xiên lửa trắng, tiếng sấm lớn đến nỗi lũ người gần như điếc cả tai, và con mèo họ mang theo cầu may mắn phải trốn dưới con thuyền ra khơi của họ. Con bão đủ mạnh và đủ tàn bạo khiến lũ người cười đùa và vỗ vai nhau, rồi họ nói, "Thần sấm đang ở đây với chúng ta, trên vùng đất xa xôi này," và họ cảm tạ, vui mừng, uống rượu cho đến khi chuếnh choáng.

Trong bóng tối mờ ảo của hội trường, đêm đó, vị thi sĩ đã hát cho lũ người nghe những bài hát cũ. Ông hát về Odin, vị Cha Cả, người đã hi sinh vì bản thân mình một cách dũng cảm và cao thượng như những người đang hi sinh cho ông. Ông hát về chín ngày Cha Cả bị treo trên cây thế giới,  bên thân ngài bị đâm và máu nhỏ xuống từ vết thương của mũi giáo nhọn, và ông hát cho lũ người nghe sự thống khổ của ngài: chín cái tên, chín cổ tự, và hai lần chín phép thần thông. Khi ông kể lũ người nghe về ngọn giáo đâm bên thân người Odin, vị thi sĩ thét lên trong đau đớn như thể Cha Cả đã kêu lên trong đau đớn, và toàn bộ lũ người run rẩy, tưởng tượng nỗi đau của ngài.

Ngày tiếp theo họ tìm thấy một tên thổ dân, hôm đó cũng là ngày của cha cả. Hắn là một tên nhỏ bé, mái tóc đen dài như cánh quạ, da hắn có màu đất sét đỏ đặc. Hắn nói thứ ngôn ngữ không ai hiểu, kể cả vị thi sĩ, người đã từng trên một con thuyền dong buồm qua trụ của Hercules và là người có thể nói chuyện với dân buôn dọc khắp Địa Trung Hải. Tên khách lạ mặc đồ lông vũ và lông thú, có những chiếc xương nhỏ bện vào mái tóc dài của hắn ta.

Lũ người dẫn hắn vào trại của họ, cho hắn ta ăn thịt nướng, cho hắn uống rượu mạnh để làm dịu cơn khát. Họ cười nhạo khi hắn vấp ngã và hát hò, đầu hắn lúc la lúc lắc, điều này chỉ tốn chưa tới một sừng rượu mật. Họ cho hắn uống thêm, và chẳng mấy chốc hắn đã nằm dưới bàn với cái đầu cuộn tròn dưới cánh tay.

Rồi họ nhấc hắn lên, mỗi người một bên vai, mỗi người một bên chân, khiêng hắn cao ngang vai, bốn người đàn ông tạo thành một con ngựa tám chân, họ khiêng hắn ở đầu một đám rước tới một cái cây tần bì trên ngọn đồi hướng ra vịnh, nơi họ đặt dây thừng quanh cổ hắn và treo hắn cao lên trước gió, vật cống nạp của họ tới Cha Cả, vị thần của hành quyết. Xác của tên thổ dân lủng lẳng trước gió, mặt hắn tối sầm, lưỡi hắn thè ra, mắt hắn lồi ra, dương vật hắn đủ cương cứng để có thể treo một cái mũ bảo hộ bằng da lên, trong khi lũ người reo hò và cười vui, tự hào vì đã gửi vật cúng tế đến thiên thượng.

Và, ngày tiếp theo, khi hai con quạ khổng lồ đậu trên xác của tên thổ dân, mỗi con một bên vai, bắt đầu mổ vào má và mắt hắn, lũ người biết lễ vật của họ đã được chấp nhận.

Đó là một mùa đông dài, và họ đều đói, nhưng họ vẫn ăn mừng bởi suy nghĩ rằng, khi mùa xuân đến, họ sẽ được gửi thuyền trở lại vùng đất phía bắc, nó sẽ mang về những di dân, và mang cả phụ nữ. Khi thời tiết bắt đầu lạnh hơn, ngày bắt đầu ngắn đi, một số người đi đã tìm kiếm ngôi làng thổ dân, với hy vọng tìm thấy thức ăn và phụ nữ. Họ chẳng tìm thấy gì, chỉ còn những mảnh đất đã từng được nhóm lửa, nơi những khu lều nhỏ đã bị bỏ hoang.

Một ngày giữa mùa đông, khi mặt trời xa xăm và lạnh giá như một đồng xu bạc mờ ảo, họ thấy phần còn sót lại của xác tên thổ dân đã bị gỡ ra khỏi cây tần bì. Chiều hôm đó tuyết bắt đầu rơi, những hạt tuyết vừa to, vừa nặng.

Lũ người từ phương bắc đóng hết cổng trại, rút lui ra sau ra bức tường gỗ. 

Bữa tiệc chiến tranh tàn khốc của đám người thổ dân xảy ra với họ vào đêm đó: năm trăm người với ba mươi người. Họ trèo qua tường, và trong bảy ngày sau đó, đám thổ dân giết sạch ba mươi người kia, theo ba mươi cách khác nhau. Và những người thủy thủ bị quên lãng, bởi lịch sử và bởi người của họ.

Tường bị xé, trong bữa tiệc chiến tranh kia, còn làng bị đốt. Con thuyền úp ngược nằm trên ván lợp mái, đám thổ dân cũng đốt, hi vọng những tên lạ mặt da xanh xao kia chỉ có một con thuyền, và nhờ việc đốt nó họ đảm bảo rằng sẽ không còn tên người Bắc nào dám tới bờ biển của họ nữa.

Đó là hơn một trăm năm trước khi Leif Kẻ May Mắn, con trai của Erik Đỏ, tái khám phá ra mảnh đất này, và ông gọi nó là Vineland. Những vị thần của ông đã chờ ông sẵn khi ông tới: Tyr, thần một tay, Odin thần hành quyết, và Thor thần sấm. 

Họ đã ở đó.

Họ đã chờ.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro