nhé,

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng


Xứ sở Ước Vọng, hay tên gọi khác là vùng đất mặt trời mọc-và-không-bao-giờ-lặn, một nơi yên ả dập dờn gợn mây trôi. Nghe nói tại đó, cư dân được ngắm mặt trời lúc bình minh sớm nhất trên thế giới. Lãnh thổ Ước Vọng trải dài từ đông sang tây, rộng lớn đến vô cùng, vì thế vầng thái dương luôn chiếu rọi huy hoàng mà không bao giờ tắt. Có nhiều lúc, ở đằng tây là ban ngày, mà ở đông đã là ban đêm. Tuy vậy, bao phủ trên bầu trời vẫn luôn là nghìn trùng xanh biếc. Mọi người hay coi đó như một vật đính ước được nam thần mặt trăng trao cho nữ thần mặt trời, và họ cùng tận hưởng hoà bình, hạnh phúc, nhưng chỉ có thể chung sống duy nhất ở đây.

Chẳng biết có phải do trùng hợp hay không, nam thần mặt trăng được gọi là Norman. Còn nữ thần mặt trời tên Emma. Theo truyền thuyết kể lại, từ trước kia, Emma vốn sợ hãi màn đêm phủ. Mà tinh linh của màn đêm, Ray, lại là một vị tướng dưới trướng Norman. Khi thần mặt trăng nhìn thấy thần mặt trời từ lần gặp đầu tiên, vào khoảnh khắc ánh mắt họ chạm nhau nơi đỉnh thế giới, chàng đã yêu rồi. Và chàng chẳng mất đến một giây ngại ngần để đày vị tướng đã trung thành với mình bao lâu nay tới miền xa xôi, cho sự thoả mãn được ở bên Emma mãi mãi.

Ray sau khi bị đày tới nơi khô cằn như hoang mạc, không có thức ăn hay nước uống, chỉ có gió nóng cuốn theo bụi hàng ngày thổi qua đất chết, đã rơi vào hỗn loạn. Y chẳng tài nào hiểu nổi vì sao mình lại phải đến đây, trong khi vẫn đang bận rộn tìm một chốn ở khác cho những ngôi sao đã nương tựa vào y để sống. Y tìm mãi, tìm mãi, mải miết tìm ngày qua ngày, tháng qua tháng, nhưng không tìm được. Chỉ có thể trơ mắt nhìn chúng đi dần. Điều kiện ở đây khắc nghiệt quá, làm chúng không toả sáng như xưa được. Cũng chỉ có thể tự tuyệt vọng, vì sao vị thần nọ lại đuổi y đi? Ray tin rằng mình đã làm điều tốt nhất để phụng sự chàng từ đó đến giờ, không một lời than vãn hay đòi hỏi. Mà có lẽ bây giờ chàng cũng đau đớn lắm, Norman không thích hợp với bầu trời ban ngày. Nhưng khi những câu hỏi tự vấn cứ quay cuồng trong tâm trí, Ray đã không khóc đến cạn nước mắt. Y thẫn thờ năm qua năm, kéo dài đến hàng thập kỷ, cho rằng bản thân không còn cần thiết nữa, và bỏ mặc chính mình. Cứ thế chết dần ở miền xa xôi.

Nhưng thực ra, Norman đã không đuổi Ray đi. Vì hoàn thành quá xuất sắc mệnh lệnh của thần mặt trăng - đồng thời hoàn thành cả các điều kiện cần thiết để tiến thêm một bước trở thành "thần" mà không hề hay biết, với tư cách màn đêm, y đã đạt được khả năng xâm nhập vào giấc mộng của người dân xứ Ước Vọng. Tuy nhiên, vì tất cả chỉ là "vô tình", và theo sự sắp đặt của Norman, sứ mệnh đang đè nặng trên đôi vai y cũng là một điều kiện giữa hằng hà sa số những điều kiện khác để được trao cho quyền năng của "thần", nên y vẫn chẳng rõ mình đã có thể nhìn thấy những giấc mơ. Thật xui xẻo làm sao, khi cư dân nơi này vẫn luôn nghĩ rằng thần mặt trời sợ hãi màn đêm, cô ấy còn sợ hãi cả những thứ thuộc về màn đêm như tinh tú nữa, nên nếu cứ tiếp tục giữ Ray ở lại, Norman sẽ không thể hạnh phúc với Emma trọn đời. Nhưng Norman lại quá si mê Emma mà chấp nhận vượt qua nỗi sợ, có thể chịu đựng được vạn dặm thiên thanh, dù nó làm cho ánh sáng của trăng càng ngày càng yếu ớt còn chàng thì luôn bị đau đớn dằn vặt. Ý nghĩ trên cứ đeo đẳng trong lòng người dân mãi, như một nỗi lo âu phiền phức và dai dẳng, tràn vào cả mộng mị. Ray đã tiếp nhận hết thảy những lầm tưởng đó, chính bản thân cũng giữ cho mình một lầm tưởng lớn nhất, tai hại nhất: y lầm tưởng đó là một phần khác của hiện thực. Vậy nên, khi Norman đẩy y tới miền xa xôi, với hy vọng rằng y có thể vượt qua sự khắc nghiệt tại đó, trui rèn bản thân và sẵn sàng thực hiện những mệnh lệnh - mà thực ra là các điều kiện tiếp theo - của chàng, Ray nghĩ chàng đã ruồng bỏ mình, rồi đi mãi không về nữa.

Khi Norman biết mình đã gây ra sai lầm, chàng chẳng còn rõ nên làm gì tiếp đó. Thần mặt trăng chỉ đơn giản muốn Ray cũng trở thành thần như chàng, mà Ray lại quá kính trọng chàng, đến nỗi cho rằng họ không thể ở cùng một bậc cấp. Chàng đã hối hận lâu rất lâu, rồi đích thân đi đến miền xa xôi, thu lại xác của những vì tinh tú, làm điều tốt nhất có thể làm để an táng chúng như một cách chuộc lỗi với Ray. Chàng gửi xác chúng và vài phần hồn còn sót lại vào một mầm sinh linh thân gỗ, dùng toàn bộ sự màu mỡ của đất và tinh khiết của lệ trăng để nuôi sinh linh nọ lớn lên. Thậm chí nữ thần mặt trời chứng kiến quyết tâm đó cũng tự nguyện ban tặng phần ánh dương rạng ngời nhất cho sinh linh. Rồi nảy mầm, dưới sự chăm sóc của hai vị thần, chẳng mấy chốc nó đã lớn phổng phao, thân cây mảnh mai mà vững chắc, toả ra nhiều cành nhánh, bên dưới lớp vỏ gỗ là từng dòng nhựa sống đang lặng lẽ chảy. Những bông hoa cũng nở rộ, tuy đẹp đẽ nhưng chẳng thể nào phát sáng rực rỡ như vì tinh tú từng làm năm xưa. Mọi người ở đây vẫn tiếp tục lầm tưởng thần linh đã tặng cho họ một món quà, và Emma để loài cây nọ nở hoa vào mùa xuân để nhớ về tuyết của đông cũ, vì hoa cũng trắng như tuyết vậy. Họ nói: "Dẫu là thần mặt trời nhưng cô lại trân trọng những tinh thể kết lại từ giá lạnh tiết hàn, đáng quý thay."

Đến hết truyện, những hiểu lầm không được gỡ bỏ, cũng chẳng có ai được hồi sinh. Tác giả của truyện, Minerva William, một đại thi hào và một nhà văn lớn, đã viết tiếp cho câu truyện phần hai vì cảm thấy mọi thứ hãy còn quá dang dở. Nhưng phần hai bị thất lạc. Theo như lời của một số người may mắn đọc kịp, nó thậm chí còn bi thảm hơn, và họ từ chối để những người khác được biết đến.

Còn Ray chỉ đơn thuần cảm thấy mai mỉa. [Ray] trong truyện không có bất cứ câu văn hay tình tiết nào đề cập đến việc y hận Norman hay không, và dù ban đầu xuất hiện như một người không được quan tâm, đến cuối cùng vẫn có được sự quan tâm từ ai đó y mong muốn. Ray rũ lại vài lọn tóc còn bướng bỉnh xoã xuống che khuất tầm nhìn bên phải, đôi mắt hẹp chăm chú nhìn dáng hình đang nhảy múa, yêu kiều tựa một nhành hoa được ngàn vạn nhành hoa khác ôm ấp. Theo câu truyện cổ tích nọ, anh đào từng là những ngôi sao, cậu bé kia lại đẫm mình dưới lệ trăng nơi bầu trời đen huyền. Bóng cậu trải dài lên giọt nước mắt vàng ngọc, khiến nó càng lộng lẫy hơn, lung linh hơn. Cảm tưởng như hết thảy điều gì đẹp đẽ nhất của màn đêm đang hội tụ trong một không gian nhỏ thật nhỏ, nên Ray không thể ngừng tay viết lên những con chữ diễn tả vẻ đẹp ấy. Đầu ngón dài mảnh liên tục uốn lượn trên trang giấy trắng tinh đã phủ đầy kí tự, trong khi mắt anh vẫn dõi theo bé con chìm giữa trắng và đen và vàng và trắng và đen và sự mê hoặc chẳng thể cưỡng lại giữa khuya ken đặc tối.

Giọng hát cậu cất lên gần như câm lặng.

Chỉ chốc nữa thôi, khi mặt trời lại ngồi trên bệ ngai của nó, sừng sững và uy nghiêm, khi Tinkerbell tỉnh dậy rồi vội vã rời đi, khi cậu bé cùng tán anh đào biến mất giữa vùng đất vốn dĩ chỉ có cỏ xanh trải rộng ngút ngàn, Ray sẽ gấp lại trang giấy mình đã viết, nhét nó vừa vặn vào một phong thư mới tinh có dấu sáp đỏ, gửi đến người mẹ đã khuất với lòng tiếc thương vô hạn.

"Mama à, mẹ có thấy không? Là Norman đấy."

*

Neverland đất lành chim đậu, một sớm mai yên bình. Mẹ đã chết với những ngụm máu đen tanh nồng sau đợt ho đến xé phổi trên giường bệnh, cố gắng níu giữ tàn hơi ngày qua ngày với thuốc 'Leslie' để có thể gượng cười khi đứng trước mặt những đứa bé; thuốc 'Don' để có thể lưu lại một phần sức khoẻ đã mất; thuốc 'Emma' để có thể tiếp tục lạc quan; và thuốc 'Gilda' để có thể kéo dài thời gian sống bằng sự thanh trẻ của cô bé thêm chút lâu.

Những thứ thuốc ấy được chế tạo từ phần tinh hoa nhất của từng bé con đã thất bại trong nghi lễ, trước khi thần chết để lộ đầu lâu sau lớp vải đen tuyền làm chúng hoảng, trước khi cánh tay xương xẩu vung mạnh lưỡi hái cướp đi sinh mạng chúng trong cháy rực lửa hoang, rồi lũ quỷ làm từ xác chết cùng bụi tiên đưa lên miệng tất cả cốt thịt ngon lành, nhai lạo xạo với nước bọt và nghiền nát tất cả với răng nhọn, nuốt ực xuống bụng, làm tan chảy mọi thứ bằng dịch dạ dày. Thế là kết thúc một kiếp người. Đơn giản đến không thể đơn giản hơn.

Nhưng toàn bộ đều giống như một lời nguyền, thuốc của người chết dù thần diệu đến đâu cũng không giữ lại được mạng của người sống. Ray biết mình đang dùng thuốc vô ích cho mẹ - thậm chí hơn cả vô ích, đó là sự lãng phí chẳng thể vãn hồi, vì cơ thể của Isabella, cũng như cơ thể của tất cả những người đã thành công, sẽ không dùng để chế tạo ra thứ thuốc khác bù lại nếu họ không tự nguyện. Dù vậy, vẫn chưa có cách nào, anh chỉ muốn mẹ sống được chừng nào hay chừng ấy. Hẵng còn quá sớm cho sự chia ly. Anh đã mất rất nhiều người, rất nhiều đứa trẻ, và đơn thuần mong sẽ không mất thêm ai nữa.

Ước mơ viển vông. Hy vọng ngu xuẩn. Nghi lễ không bao giờ dừng lại, những con quái vật có nguồn gốc từ thần tiên cũng thế. Một ngày nào đó Anna - người duy nhất của thế hệ trước còn sống, còn ở lại với anh - sẽ tiếp bước chân không ngoảnh đầu lại, bụi tiên đẹp rực rỡ trở thành vật thiết yếu sinh ra lũ ăn thịt người. Norman đi rồi, Mama, và Tinkerbell, Ray có lẽ sẽ một mình đối mặt với nỗi cô đơn không tài nào chịu đựng, cùng chông chênh những mặc cảm giữa lòng thế giới, chẳng có ai để chia sẻ. Lũ trẻ ư? Không không, chúng còn quá ngây thơ để biết được thực tại tàn nhẫn này, Ray cũng quá ngu ngốc để nghĩ ra phương cách nào đó có khả năng cứu tất cả chúng. Thật trớ trêu làm sao, cũng thật đáng ghen tị làm sao, trong cuốn cổ tích nọ, [ Ray ] lại là người ra đi trước tiên và được thương tiếc. Còn Ray ở đây bị bỏ lại theo cách đau đớn nhất, chọn ra vài đứa trẻ muốn đem theo nhất, nghĩ đến việc hy sinh bản thân để đảm bảo chúng an toàn. Con yêu mẹ, anh yêu lũ trẻ, tớ yêu cậu, mình yêu tháng ngày thời thơ ấu. Loại tình yêu đó giết chết Ray từng phút từng giây, qua mỗi nhịp thở. Làm sao quay lại thuở còn chưa biết gì, đơn giản ngây dại chào các anh chị em trước cánh cổng, chẳng hay rằng lời cuối cùng là vĩnh biệt, là vô tận, là mãi mãi?

Dù không nhận được hồi âm nào, những lá thư tay viết ngay ngắn vẫn được gửi. Mọi người có đọc được chúng không? Mọi người có nhớ những đứa trẻ còn lại không? Mọi người có hận tôi không, vì là kẻ cuối còn sống sót? Mọi người sẽ hạnh phúc chứ? Tất cả sẽ hạnh phúc chứ?

Bỗng Tinkerbell trồi lên từ chiếc cúc áo thứ hai trên áo anh, cười cười tinh nghịch. Hoá ra hôm nay nàng vẫn chưa hề rời đi. Vị tiên nhỏ bé với đôi cánh bạc và mái tóc vàng dùng những ngón tay tí hon nõn nà để lau đi lệ buồn nơi mắt tím. "Em biết là sẽ có chuyện mà. Kể cả là anh, cũng đâu thể mãi vờ mạnh mẽ trước mặt người khác." Trước kia, khi hay rằng thực ra các anh chị em của mình sẽ không quay trở lại, Ray từng khóc. Đó không phải là những giọt nước mắt tính từ lần đầu biết mọi chuyện như Emma, mà là sự lắng đọng của nỗi buồn qua từng ngày từng tháng. Anh đã chứng kiến rất nhiều sự ra đi như thế, chẳng một lời tiễn biệt, chẳng một câu đáp lại. Đều đặn ba tháng một lần, rồi một ngày nọ, nước mắt cứ thế chảy xuôi.

Đến khi giật mình, mới nhận ra tự bao giờ, đã khóc.

[ Tôi sẽ mơ về người, về nơi tôi thực sự thuộc về.

Nhưng người ơi, liệu ta thật sự có gặp nhau ở mảnh xanh nhất của bầu trời? ]

Minerva William có ghi, ông cũng chứng kiến một trường hợp lạ lùng. Sự thông minh kiệt xuất của thiên tài cũng không thể lý giải cho số thông tin cậu bé ấy biết. Theo những dòng miêu tả của vị văn hào lỗi lạc kia, cậu bé có mái tóc bạc, đôi sợi hơi xoăn, cặp mắt xanh biếc tựa sapphire và nụ cười trong trẻo như sương sớm. Em cũng rất yếu, thường hay ngã bệnh. Có lẽ bộ não đã lấy đi hết những tinh tuý về thể chất của em, nhưng em vẫn luôn cười, không kém, không hơn. Rồi em mất vào ngày đầu tiên của năm, ngay trước khi người ta kịp chuyển em đi cho nghi lễ có lũ quỷ. Hôm đó tuyết rơi dày, anh đào chưa vội nở, mới chỉ là những nhánh cành khẳng khiu màu nâu gỗ. Vậy mà em đã nằm lại thật bình yên, cả thân người được ôm trọn trong lòng biển tuyết trắng rồi.

Nghe sao giống Norman quá.

Ngày ấy, Norman từng kể cho anh nghe những điều đã diễn ra trong nghi lễ ngay trước khi họ mất liên lạc hoàn toàn. Anh ta nói rằng nghi lễ thực ra chỉ là một phép thử. Có thứ pháp màu nào đó sẽ diễn ra trước mắt bọn trẻ đã được lũ quỷ gián tiếp dùng một phần máu thịt của mình ban phước. Đầu tiên, những người goá phụ lớn tuổi vận váy đen chấm gót, đầu đội mũ cướp biển cùng dải khăn mỏng tang rủ xuống, hờ hững che đi đường nét nơi khuôn mặt sẽ tiến lên một bước trong hầm tối, gần hơn với đám trẻ. Họ sẽ trao cho những linh hồn tội nghiệp đang quỳ gối, ngửa hai lòng bàn tay đầy thành kính và mong đợi kia một nắm bụi tiên sáng loà lần lượt theo thứ tự. Chúng phải uống hết nắm bụi tiên ấy một cách trang trọng đến mỉa mai, mở miệng và dốc thẳng vào họng. Không được để sót hạt bụi nào. Sau đó, dưới sự chỉ dẫn, chúng sẽ đi đến các căn phòng riêng biệt có cửa trắng, tủ trắng, tường trắng, giường trắng và mọi thứ đều mang sắc trắng nguyền rủa. Chỉ được ra ngoài duy nhất một lần mỗi tháng. Đồ ăn được chuyển vào đều đặn qua một khe hở nhỏ dưới cửa, không đủ lớn để người lọt ra. Nếu hết khoảng thời gian đã định sẵn mà không nhìn thấy phép màu diễn ra ngay trước mắt rồi miêu tả phép màu ấy ra sao, chúng sẽ bị giết, hoặc bị giam ở phòng trắng cho đến ngày chẳng còn nhớ được hình dáng người thân hay hình dáng chính mình trông thế nào.

Dường như không gian của những căn phòng là vô hạn, đến nỗi không có điểm bắt đầu hay kết thúc, bao nhiêu thế hệ ở đây hoặc được ướp xác trong bụi tiên vàng, hoặc đã mục rữa tới tận xương. Trong quá trình tự huỷ hoại ấy, những người phụ nữ già dâng hiến đống thịt cho quỷ đen, hay dùng ma thuật để lấy đi phần đẹp đẽ nhất của từng người trong số bọn trẻ, nấu theo một công thức bí mật bằng cái vạc đen khổng lồ sôi sùng sục bọt nước. Để chế thuốc cần có những công đoạn nhất định, mà hai loại thuốc được mong đợi nhất là cải lão hoàn đồng, cải tử hoàn sinh. Tuy vậy, có vẻ màu nhiệm của thần linh đã chọn hết hạt giống tiềm năng để đem đi mất, nên từ xa xưa, hai loại thuốc này đã quý hiếm và đắt đỏ tới mức không cân đo đong đếm giá trị nổi.

Hồi đó, Norman cũng nói anh muốn nghe lại Ray hát. Một bài hát ru nhỏ thôi, nhịp nhàng và thinh lặng. Năm xưa, Leslie đã sáng tác ra giai điệu thanh thoát ấy, gảy đàn Mandolin dưới tán cây trưa hè. Anh từng rất thích nó, sẵn lòng hát cho Norman nghe. Nhưng từ khi Isabella trở về đằng sau cánh cửa gỗ, khoác lên người tà váy đen và chiếc mũ cướp biển, Ray không hát nữa. Isabella cũng không, bà bỏ cả thói quen ngâm nga lúc may vá. Mọi thứ dần trôi vào lãng quên, duy chỉ trừ đàn bướm bay lượn trên xanh mướt triền cỏ. Hình ảnh của Leslie những năm tháng cũ kia gắn liền với đàn bướm đó, và giờ nghĩ lại, trông hợp lý làm sao. Ở Neverland, loài sinh vật hẫng nhẹ, dễ vỡ dễ tan nhưng sặc sỡ sắc màu này chỉ đi ăn những thứ đã mục nát.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro