Phần 3

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng


3. "NGÀNH KINH DOANH CHÍNH CỦA

CHÚNG TÔI LÀ BẢO HIỂM"

Thuở ban đầu của Berkshire Hathaway

Khi Công ty hợp danh đầu tư Buffett giành quyền kiểm soát Berkshire

Hathaway vào năm 1965, cổ phiếu của công ty rớt giá xuống một nửa và kinh

doanh thua lỗ vượt qua mức 10 triệu đô la. Buffett và Ken Chace, người

quản lý Công ty dệt may, làm việc chăm chỉ để tìm cách xoay chuyển

tình thế của công ty dệt may. Kết quả thật đáng thất vọng: Tiền lãi thu được từ

cổ phiếu khó khăn lắm mới đạt được mức hai con số.

Giữa tình trạng ảm đạm đã xuất hiện một điểm sáng, một tín hiệu tốt: Đó là sự

quản lý khéo léo danh mục đầu tư cổ phiếu thường của Buffett. Khi Buffett

mua lại, công ty có 2,9 triệu đô la cổ phiếu được bán trên thị trường. Cuối năm

đầu tiên, Buffett đã tăng số lượng chứng khoán tới 5,4 triệu đô la. Năm 1967,

phần tiền lãi thu được từ đầu tư gấp ba lần số tiền thu được từ toàn bộ bộ

phận dệt may, gấp 10 lần vốn căn bản từ phát hành chứng khoán.

Tuy vậy, trong thập kỉ tiếp theo, Buffett dần hiểu được một số điểm thực tế.

Trước hết, bản chất ngành dệt may làm cho phần lợi tức cao thu được từ cổ

phiếu trở nên không chắc chắn. Cạnh tranh từ bên ngoài - thuê nhân công rẻ

hơn - đang thu hẹp dần lợi nhuận biên. Thứ hai, để tiếp tục cạnh tranh, các

nhà máy dệt may sẽ cần phải cải thiện nguồn vốn đáng kể - một triển vọng

đang bị đe doạ trong một môi trường lạm phát và đầy nguy hiểm nếu phần

tiền lãi thu về không đủ.

Buffett không hề cố gắng che đậy những khó khăn, nhưng trong một vài lần,

ông đã giải thích lối suy nghĩ của ông: Các nhà máy dệt may là ông chủ lớn

nhất trong ngành, nguồn lực lao động là nhóm tuổi già hơn với kỹ năng không

thể thay thế được, ban quản lý có lòng nhiệt tình cao; các hiệp hội đều hợp lý,

và cuối cùng, ông đã tin rằng ngành kinh doanh dệt may sẽ thu được lợi

nhuận.

Tuy vậy, Buffett đã làm rõ rằng ông mong đợi nhóm ngành dệt may sẽ thu

được một khoản tiền lãi khả quan trên những khoản vốn chi phí khiêm tốn

nhất. Buffett nói: "Tôi sẽ không đóng cửa một công ty có tiềm năng lợi

nhuận dưới mức bình thường mà chỉ thêm vào một phần nhỏ cho tiền lãi

củacông tychúng tôi".Ông giảithích:"Tôi cũng cảm thấy thật bấthợplý cho

một công ty có tiềm năng lợi nhuận khác thường khi đầu tư vào một công ty

dường nhưsẽ thua lỗ trong tương lai. Adam Smith sẽ không tán thành với ý

kiến đầu tiên và Karl Marx sẽ không tán thành với ý kiến thứ hai của tôi,

phần ởgiữa là vị trí duy nhất khiến tôi thoảimái".

Trong năm 1980, báo cáo thường niên đã chỉ ra những tín hiệu xấu cho tương

lai của công ty dệt may. Năm đó, ngành mất vị trí dẫn đầu uy tín trong Bức thư

của Chủ tịch Hội đồng Quản trị. Trong năm tiếp theo, ngành dệt may

đã hoàn toàn không xuất hiện trong bức thư nữa. Tiếp theo, một sự thật

không thể tránh khỏi: Tháng Bảy năm 1985, Bufffett đã gấp những cuốn sách

về ngành dệt may, vì vậy chấm dứt hoạt động của một ngành kinh doanh

được bắt đầu vào khoảng một trăm năm trước đây.

Trải nghiệm đó không phải chỉ là một sự thất bại hoàn toàn. Trước hết,

Buffett học được một bài học quý giá về sự thay đổi của công ty: Họ hiếm khi

thành công. Thứ hai, tập đoàn dệt may đã tạo ra đủ vốn trong những năm đầu

tiên để mua một công ty bảo hiểm và đó là một câu chuyện tươi sáng hơn rất

nhiều.

Ngành kinh doanh bảo hiểm

Tháng Ba năm 1967, Berkshire Hathaway mua cổ phiếu hiện hành của hai

công ty bảo hiểm có trụ sở chính tại Omaha với giá 8,6 triệu đô la: National

Indemnity Company (Công ty Bồi thường Quốc gia) và National Fire & Marine

Insurance Company (Công ty Bảo hiểm Hàng hải và Hoả hoạn Quốc gia). Đó là

sự khởi đầu cho một câu chuyện thành công phi thường. Công ty Dệt may

Berkshire Hathaway không tồn tại lâu dài, nhưng Berkshire Hathaway sẽ trở

thành công ty đầu tư đầy triển vọng.

Để đánh giá sự phi thường, chúng ta phải nhận ra giá trị thực sự của việc sở

hữu một công ty bảo hiểm. Các công ty bảo hiểm đôi khi là những vụ đầu tư

béo bở, đôi khi lại không. Tuy vậy, các công ty này luôn là những phương tiện

đầu tư tuyệt vời. Những người giữ hợp đồng bảo hiểm, thông qua thanh

toán phí bảo hiểm, cung cấp dòng tiền mặt thường xuyên, gọi là bong bóng.

Các công ty bảo hiểm đặt dòng tiền mặt này sang một bên (gọi là dự trữ) để

trả tiền số tiền bảo hiểm mỗi năm, dựa trên khả năng ước tính tốt nhất của họ,

và đầu tư phần còn lại. Để chính bản thân chúng có khả năng thanh khoản cao,

vì rất khó để xác định chính xác khi cần phải thanh toán tiền bồi thường, hầu

hết mọi người lựa chọn cách đầu tư vào những chứng

khoán đang chào bán trên thị trường - những cổ phiếu và trái phiếu ban

đầu. Vì vậy Warren Buffett đã mua lại không chỉ hai công ty có tiềm lực khiêm

tốn mà còn cả một phương tiện cứng cỏi để quản lý các vụ đầu tư.

Đối với một người lựa chọn chứng khoán theo mùa như Buffett, đó là một

phép toán hoàn hảo. Chỉ trong vòng hai năm, ông tăng danh mục chứng khoán

và cổ phiếu kết hợp của hai công ty từ 31,9 triệu đô la lên gần 42 triệu đô la.

Cùng thời điểm đó, những công ty bảo hiểm hoạt động tương đối

tốt. Chỉ trong vòng một năm, lợi nhuận ròng của Công ty Bồi thường Quốc gia

tăng từ 1,6 triệu đô la lên đến 2,2 triệu đô la.

Thành công bước đầu của Buffett trong ngành bảo hiểm đã dẫn đường cho

ông mở rộng tập đoàn này. Trong thập kỷ tiếp theo, ông mua thêm ba công ty

bảo hiểm nữa. Ông không hề đi chậm lại. Tới năm 2004, Berkshire sở hữu 38

công ty bảo hiểm, bao gồm hai đại gia khổng lồ, Government Employees

Insurance Company (GEICO) và General Re, mỗi công ty có rất nhiều chi

nhánh.

Công ty bảo hiểm GEICO

Trước hết, Warren Buffett biết đến GEICO từ khi còn là sinh viên tại Columbia

vì thầy giáo của ông - Ben Graham - là Tổng Giám đốc. Niềm say mê tri thức

của Buffett thể hiện trong câu chuyện của một sinh viên trẻ tuổi tới thăm văn

phòng của công ty vào một buổi sáng thứ Bảy và đập cửa thình thịch cho tới

khi người gác cửa cho anh ta vào. Sau đó, Buffett mất năm tiếng đồng hồ để có

được một buổi đào tạo về ngành kinh doanh bảo hiểm từ một người duy nhất

làm việc trong ngày hôm đó: Lorinmer Davidson, nhân viên đầu tư sau này

trở thành CEO của công ty. Điều ông học được đã kích thích trí tò mò của ông.

GEICO được thành lập dựa trên hai khái niệm đơn giản nhưng công bằng: Nếu

bạn chỉ bảo hiểm những người có hồ sơ tốt bạn sẽ mất ít tiền bồi thường hơn.

Nếu bạn bán trực tiếp cho khách hàng, không thông qua các đại lý, bạn sẽ

giảm thiểu được tổng chiphí.

Trở về quê hương Omaha và làm việc cho công ty môi giới của cha ông, một

chàng trai rất trẻ như Warren Buffett đã viết một bài báo về GEICO cho một

tạp chí tài chính. Ông đã viết: "Có lý do để tin rằng tỉ lệ tăng trưởng nằm ở

phía trước". Buffett đầu tư 10.282 đô la vào công ty, rồi năm sau bán đi và thu

được 50% lợi nhuận. Tuy nhiên, ông vẫn luôn theo dõi sát sao hoạt động của

công ty.

Suốt những năm 1950 và 1960, GIECO rất phát triển. Nhưng sau đó, công ty

bắt đầu rơi vào tình trạng hỗn loạn. Trong vài năm, công ty cố gắng mở rộng

nền tảng khách hàng thông qua bán hạ giá và nới lỏng những yêu cầu thích

hợp, và trong hai năm liền, công ty tính toán sai nghiêm trọng lượng tiền dự

trữ cần thiết (ngoài khoản tiền dùng để trả tiền bồi thường). Hậu quả là, vào

khoảng giữa những năm 1970, công ty từng vang bóng một thời

gần như phá sản.

Năm 1976, khi giá cổ phiếu giảm từ 61 đô la xuống còn 2 đô la một cổ phiếu,

Warren Buffett bắt đầu mua. Suốt khoảng thời gian năm năm, với niềm tin

kiên định rằng đó là một công ty hùng mạnh với những lợi thế cạnh tranh

nền tảng bền vững, Buffett đã đầu tư 45,7 triệu đô la vàoGEICO.

Ngay trong năm sau, năm 1977, công ty lại làm ăn có lãi. Suốt hai thập kỷ tiếp

theo, GEICO có tỉ lệ bảo hiểm dương có nghĩa là công ty thu được tiền phí bảo

hiểm nhiều hơn số tiền thanh toán bồi thường bảo hiểm - hàng năm chứ

không chỉ có một năm. Trong ngành bảo hiểm, khi đó tỉ lệ âm là chuyện

thường không phải là ngoại lệ, loại hồ sơ bảo hiểm như của GEICO hầu như

không được biết tới. Với sự quản lý hết sức thông minh của Lou Simpson, một

người đàn ông có tên tuổi khiến GEICO thu được những nguồn đầu tư cực kỳ

lớn.

Đến năm 1991, Berkshire sở hữu gần một nửa (48%) cổ phần của GEICO. Kết

quả hoạt động đầy ấn tượng của công ty bảo hiểm, cùng sự quan tâm của

Buffett dành cho công ty, ngày càng tăng. Trong năm 1994, bắt đầu xuất hiện

những buổi thảo luận nghiêm túc về việc Berkshire mua lại toàn bộ công ty,

và trong năm tiếp theo, bản hợp đồng cuối cùng đã được thông báo. Tại thời

điểm đó, Berkshire sở hữu 51% cổ phần của GEICO, và chấp nhận mua nốt

phần còn lại với giá 2,3 tỉ đô la. Đó là thời điểm hầu hết các công ty trong

ngành bảo hiểm phải rất khó khăn mới thu được lợi nhuận và hầu hết các nhà

đầu tư đều giữ khoảng cách với đa số các công ty trong ngành. Toàn bộ công

việc trên giấy tờ hoàn tất vào đầu năm 1996. Từ đó, Berkshire Hathaway

chính thức sở hữu GEICO và quản lý độc lập với các công ty cổ phẩn bảo hiểm

khác của BerkshireHathaway.

Mặc dù cũng gặp phải một vài khó khăn, nhưng niềm tin của Buffett vào nền

tảng cơ bản của GEICO phần nào được đền đáp. Từ năm 1996 tới năm 2003,

thị phần của công ty tăng từ 2,7% lên 5%. Thời gian khó khăn nhất đó là vào

năm 2000, khi nhiều khách hàng bảo hiểm của công ty chuyển sang sử dụng

dịch vụ của các nhà cung cấp khác, và một chiến dịch quảng cáo cực kỳ rầm rộ

(tiêu tốn khoảng 260 triệu đô la) đã thất bại, không tạo ra nhiều hợp đồng

kinh doanh mới như dựkiến.

Mọi thứ bắt đầu ổn định dần vào năm 2001, và sang năm 2002, GEICO quay

trở lại đúng quỹ đạo hoạt động, với mức tăng trưởng đáng kể trên thị

trường cổ phiếu cũng như lợi nhuận. Năm đó, GEICO thu được 6,9 tỉ đô la tiền

phí bảo hiểm, một bước nhảy vọt so với con số 2,9 tỉ đô la hồi năm 1996, năm

Berkshire mua lại toàn bộ công ty. Tháng Tư năm 2003, công ty đạt được một

bước ngoặt lịch sử với hợp đồng bảo hiểm thứ 5 triệu. Cuối năm 2003, 5 triệu

người có hợp đồng bảo hiểm này nộp tổng số phí bảo hiểm là 8,1 tỉ đô la.

Do lợi nhuận biên tăng, người có hợp đồng bảo hiểm càng trung thành hơn

với công ty, nên GEICO tập trung vào xây dựng những mối quan hệ lâu dài với

khách hàng. Khi Buffett tiếp quản công ty vào năm 1996, ông đưa ra một hệ

thống khuyến khích mới để thưởng cho sự tập trung này. Một nửa số tiền

thường và tiền chia lãi dựa trên những hợp đồng có ít nhất một năm tuổi, nửa

còn lại dựa vào sư gia tăng của người tham gia bảohiểm.

Trung bình mỗi khách hàng của GEICO có nhiều hơn một phương tiện được

bảo hiểm, đóng phí bảo hiểm khoảng 1.100 đô la hàng năm, nhưng duy trì

một hồ sơ tuyệt vời. Như Buffett từng chỉ ra nguyên lý kinh tế của công thức

đó thật đơn giản: "Tiền đổ về thay vì chảy ra ngoài".

Từ thỏa thuận ban đầu là 2 đô la một cổ phiếu hồi năm 1976, Buffett đã trả

gần 70 đô la một cổ phiếu cho phần còn lại của công ty trong năm 1996. Ông

không đưa ra lời biện hộ nào. Ông coi GEICO là công ty duy nhất có tiềm

năng vô hạn, và điều này rất đáng giá. Ở khía cạnh này, theo Charlie Munger –

cộng sự có ảnh hưởng sâu sắc tới Buffett, nếu bạn muốn sở hữu những công

ty có triển vọng nhất, bạn phải sẵn sàng trả hết khi người ta sẵn sàng bán

chúng.

Nếu hiểu mối quan hệ công việc gần gũi của họ, chúng ta có thể nói rằng

Munger có ảnh hưởng rất lớn đến quyết định liên quan đến bảo hiểm lớn

khác của Berkshire.

General Re Corporation

Năm 1996, Buffett chi 2,3 tỉ đô la để mua một nửa còn lại của GEICO mà ông

chưa sở hữu. Hai năm sau, ông đã chi gấp bảy lần số tiền đó, vào khoảng 16 tỉ

đô la trị giá cổ phiếu của Berkshire Hathaway để mua lại một công ty bảo

hiểm mang tên General Re. Đó là vụ mua lại lớn nhất từ trước tới nay. Một số

người gọi nó là sự kiện lớn nhất trong lịch sửBerkshire.

Tái bảo hiểm là một lĩnh vực của ngành bảo hiểm không được nhiều người

biết đến, do nó không liên quan đến những sản phẩm quen thuộc trong

cuộc sống, sở hữu nhà cửa, hoặc bảo hiểm tự động. Theo cách hiểu đơn giản

nhất, các công ty tái bảo hiểm bảo hiểm các công ty bảo hiểm khác. Mặc dù

một bản hợp đồng không giải thích rõ ràng phí bảo hiểm và phần thua lỗ được

chia như thế nào, một công ty tái bảo hiểm phải chịu trách nhiệm một tỉ lệ

phần trăm nào đó phần rủi ro của công ty bảo hiểm. Điều này khiến nhà tái

bảo hiểm ban đầu phải chịu mức độ rủi ro cao hơn, giảm thiểu nhu cầu vốn

hoạt động, và giảm bớt tỉ lệ thualỗ.

Về phần mình, nhà tái bảo hiểm nhận được một phần phí bảo hiểm, để đầu tư

nếu công ty thấy hợp lý. General Re chủ yếu là đầu tư vào trái phiếu. Thực tế

điều này là một phần quan trọng trong chiến lược mua lại công ty của Buffett.

Khi Buffett mua lại công ty, General Re sở hữu gần 19 tỉ đô la trị giá trái phiếu,

5 tỉ đô la trị giá cổ phiếu, và 15 tỉ đô la tiền thả nổi. Bằng cách sử dụng cổ

phiếu của Berkshire để mua lại công ty và danh mục trái phiếu nặng ký của

nó, chỉ bằng thao tác đơn giản, Buffett đã chuyển cán cân toàn bộ số cổ phần

của Berkshire từ 80% cổ phiếu xuống 60%. Cuối năm 1998, Sở Thuế vụ (IRS)

đưa ra quy định sáp nhập không bao hàm phần lợi nhuận vốn, điều đó có

nghĩa là ông đã cố gắng "bán" gần 20% cổ phần của Berkshire, vì vậy không

tránh sự biến động giá cả tồi tệ nhất, về bản chất là miễnthuế.

Điều thay đổi quan trọng duy nhất theo sát quá trình sáp nhập đó là sự biến

mất của đơn vị đầu tư General Re. Khoảng 150 người có quyền quyết định

đầu tư các quỹ của công ty vào đâu, chúng được thay thế bởi một cá nhân duy

nhất. Đó chính là Warren Buffett.

Chỉ sau khi Berkshire mua lại General Re, công ty trải qua một trong những

năm tồi tệ nhất. Năm 1999, GenRe thanh toán số tiền bồi thường từ những

thảm hoạ thiên nhiên (mưa đá ở Australia, những trận động đất ở Thổ Nhĩ Kỳ,

và một loạt cơn bão khốc liệt ở Châu Âu), từ vụ cháy nhà lớn nhất trong lịch

sử, và sự thất bại của một công ty chiếu phim danh tiếng (công ty đã mua bảo

hiểm số hoá đơn bán vé). Vấn đề trở nên tồi tệ hơn khi GenRe tham gia một

nhóm các nhà bảo hiểm và tái bảo hiểm dính líu vào vụ lộn xộn đền bù công

nhân mà cuối cùng kết thúc bằng một vụ tranh chấp phức tạp và khoản thiệt

hại hữu hình xấp xỉ 275 triệu đô la trong hai năm hoạt động (1998 và 1999).

Vấn đề sau đó được làm sáng tỏ là do GenRe đã bán phá giá sản phẩm của

mình. Hãy nhớ rằng, số phí bảo hiểm thu vào cuối cùng sẽ được thanh toán

cho những người có hợp đồng bảo hiểm được bồi thường. Khi phải thanh

toán nhiều hơn số tiền thu được, kết quả sẽ là vụ bảo hiểm thua lỗ. Tỉ lệ thua

lỗ so với số phí bảo hiểm nhận được trong một năm bất kỳ được gọi là chi phí

thả nổi cho năm đó. Khi cả hai phần của công thức cân bằng nhau, chi phí thả

nổi bằng 0 là một điều tốt cho công ty. Thậm chí còn tốt hơn nếu tỉ lệ đó thấp

hơn con số 0, hay chi phí thả nổi âm, điều này xảy ra khi tiền phí mua bảo

hiểm thu được vượt xa số tiền thanh toán bồi thường thiệt hại, tạo ra lợi

nhuận bảo hiểm. Điều này muốn nói tới chi phí thả nổi âm, nhưng thực tế thì

nó luôn dương: Công ty bảo hiểm được thanh toán để giữ vốn.

Phần thả nổi là một điều tuyệt vời, Buffett thường nhận xét như vậy, trừ khi

nó trở thành một chi phí quá cao. Tiền phí bảo hiểm thu được quá thấp, hoặc

thiệt hại phải bồi thường cao bất thường sẽ gây tác động xấu cho chi phí thả

nổi. Khi cả hai đồng thời xảy ra, chi phí thả nổi sẽ tăngvọt.

Đó chính là điều đã xảy ra với GenRe, mặc dù lúc đầu không hẳn là như vậy.

Ngay đầu năm 1999, Buffett đã nhận ra rằng các hợp đồng bảo hiểm được bán

với giá thấp hơn quy định, và ông bắt đầu chỉnh sửa lại sai lầm này. Tuy vậy,

những ảnh hưởng của sự thay đổi này không thể một sớm một chiều mà có

được. Năm 2000, General Re đã trải qua một vụ thua lỗ bảo hiểm trị giá 1,6 tỉ

đô la, tạo ra chi phí thả nổi lên tới 6%. Tuy vậy, Buffett cảm thấy có thể báo

cáo trong thư gửi cổ đông năm 2000 rằng tình thế đang dần được cải thiện

và ông mong đợi xu hướng phát triển sẽ xảy ra, Sau đó, trong một khoảnh

khắc khủng khiếp, ông thêm vào một câu mà không hề có ý định trước: "Trừ

khi không có thảm hoạ khủng khiếp nào, chúng ta kỳ vọng chi phí thả nổi sẽ

giảm trong năm 2001". Khoảng sáu tháng sau, vào ngày 11 tháng Chín, nước

Mỹ đã trải qua một thảm hoạ khủng khiếp mà chúng ta không bao giờ tưởng

tượng được.

Trong thư gửi cổ đông gửi kèm báo cáo quý III năm 2001, Buffett viết: "Một

thảm hoạ khủng khiếp không có gì đáng ngạc nhiên nữa. Đôi khi nó xảy ra, và

lần này không phải là lần cuối cùng của chúng ta".

Buffett ước tính thiệt hại phải bồi thường của Berkshire từ vụ tấn công khủng

bố ngày 11 tháng Chín lên tới 2.275 tỉ đô la, trong đó 1,7 tỉ đô la là của

General Re. Mức độ thiệt hại đã châm ngòi một sự thay đổi cho GenRe. Họ đã

nỗ lực hơn để đảm bảo những hợp đồng bảo hiểm được định giá chuẩn xác, và

số tiền dự trữ được giữ lại đủ để thanh toán các vụ bồi thường. Sự thay đổi,

sửa đổi này đã thành công. Năm 2002, sau năm năm

thua lỗ, GenRe đã báo cáo khoản lợi nhuận bảo hiểm đầu tiên của công ty, là

động lực để Buffett thông báo trong cuộc họp Hội đồng Quản trị thường niên

năm 2002:"Chúng ta đã trở lại".

***

Warren Buffett vốn nổi tiếng là người luôn giữ vững lập trường. Với "thương

hiệu" là người ngay thẳng, ông là người đầu tiên thừa nhận rằng ông không

hề thấy GenRe có vấn đề gì cả. Đối với những người quan sát Warren Buffett,

bản thân nhận định đó là một sự thú vị kỳ lạ. Đó là trường hợp mà một người

lão luyện như Buffett có thể bỏ qua những vấn đề phức tạp của ngành bảo

hiểm. Nếu những vấn đề đó rõ ràng, tôi chắc chắn rằng Buffett sẽ không trả

cái giá mà ông đã dành cho GenRe. Tuy vậy, tôi cũng khá chắc chắn rằng ông

sẽ tiếp tục bởi vì tầm nhìn của ông luôn hướng về dài hạn.

Ngành tái bảo hiểm mở ra tiềm năng khổng lồ, và một công ty tái bảo hiểm

hoạt động tốt sẽ tạo ra giá trị khổng lồ cho các cổ đông. Buffett hiểu rõ điều đó

hơn bất kỳ ai. Vì vậy, mặc dù sai lầm khi định giá của GenRe gây ra những vấn

đề trong ngắn hạn, và mặc dù ông đã "mua" những vấn đề này cùng với công

ty, điều này không phủ nhận kết luận cơ bản của ông rằng một công ty tái bảo

hiểm được quản lý tốt tạo giá trị lớn cho Berkshire. Trong một tình huống

như thế này, bản năng của Buffett là sẽ khắc phục vấn đề, chứ không từ bỏ

công ty đi.

Như vẫn thường làm, Buffett tin tưởng những nhà quản lý của công ty với bảo

hiểm đang dần được khôi phục thông qua định giá hợp lý những hợp đồng

bảo hiểm và đặt ra mức dự trữ tương đối đủ. Dưới sự quản lý của họ, ông đã

viết trong thư gửi cổ đông năm 2003, General Re "sẽ là một phương tiện

mạnh mẽ thúc đẩy khả năng lợi nhuận trong tương lai của Berkshire".

Trong bức thư này, General Re là một trong hai công ty tái bảo hiểm toàn cầu

quan trọng duy nhất được xếp hạng AAA (hạng cao nhất). Công ty còn lại

cũng là một công ty của Berkshire: The National Indemnity Reinsurance

Operation (Công ty tái Bảo hiểm Bồi thường Quốc gia)

Tập đoàn tái bảo hiểm Berkshire Hathaway

Công ty tái bảo hiểm Bồi thường Quốc gia thuộc Berkshire ngày nay rất khác

biệt so với công ty mà Buffett mua lại năm 1967. Điểm khác biệt đó là cách tổ

chức hoạt động và quy mô chứ không chỉ khác biệt trong triết lý kinh

doanh cơ bản.

Một bộ phận của Công ty Bồi thường Quốc gia trước đây không tồn tại dưới

thời của người sáng lập ra nó - Jack Ringwalt - là bộ phận tái bảo hiểm. Ngày

nay, bộ phận này, được điều hành từ văn phòng của Công ty Bồi thường Quốc

gia tại Stamford, Connecticut, đóng góp tích cực vào tổng doanh thu của

Berkshire.

Tập đoàn tái bảo hiểm do Ajit Jain đứng đầu. Ajit sinh ra tại Ấn Độ, tốt nghiệp

Học viện công nghệ Ấn Độ và trường Đại học Harvard. Gần đây, ông nói vui

rằng khi ông gia nhập Berkshire hồi năm 1982, ông thậm chí không biết tái

bảo hiểm là gì, tuy vậy ông đã xây dựng một công ty có mức lợi nhuận khổng

lồ, và nhận được sự khen ngợi cao nhất của Buffett trong nhiều năm.

Hoạt động dựa trên nền tảng sự hùng mạnh tài chính của Berkshire, tập đoàn

tái bảo hiểm có thể thảo ra những hợp đồng bảo hiểm mà các công ty khác,

thậm chí là các công ty tái bảo hiểm khác, không bao giờ dám "béng mảng" tới.

Một số công ty đứng ngoài lề bởi vì những hợp đồng bảo hiểm này quá đặc

biệt: một hợp đồng bảo hiểm cho trường hợp làm tổn hại đến thân thế hoặc

thanh danh đối với siêu sao Alex Rodriges của đội bóng chày Texas Rangers,

hay cho một vụ thanh toán trị giá 1 tỉ đô la của một tấm vé số trên Internet.

Nhận xét vụ bảo hiểm thứ hai, Phó Chủ tịch Tập đoàn tái bảo hiểm cho rằng:

"Chỉ cần phí bảo hiểm cao hơn tỷ lệ, thì chúng ta hoàn toàn cảm thấy thoải

mái".

Số lượng tham gia bảo hiểm tại tập đoàn bảo hiểm không phải quá là hào

nhoáng. Tuy vậy, công ty thu được nhiều lợi nhuận. Doanh thu tăng đáng kể

trong năm 2002 và 2003. Sau vụ khủng bố ngày 11 tháng Chín, nhiều công ty

và cá nhân đã tăng danh mục bảo hiểm của họ lên rất nhiều, tuy vậy

trong hai năm tiếp theo không hề xảy ra thảm hoạ nào. Trong năm 2003, Tập

đoàn tái bảo hiểm Berkshire Hathaway thu được 4,43 tỉ đô la tiền phí bảo

hiểm, mang lại tổng số tiền thả nổi xấp xỉ 14 tỉ đô la.

Có lẽ quan trọng hơn là chi phí tiền mặt thả nổi năm đó âm 3% - có nghĩa là

không có chi phí, mà chỉ có lợi nhuận. (Trong trường hợp này, hãy nhớ rằng

"âm" là một số dương). Đó là bởi vì trong năm 2003, Tập đoàn tái bảo hiểm

thu được lợi nhuận bảo hiểm (thu được nhiều phí bảo hiểm hơn số tiền phải

thanh toán bồi thường thiệt hại) trị giá hơn 1 tỉ đô la. Để dễ dàng so

sánh, trong cùng một năm, lợi nhuận bảo hiểm của GEICO là 452 triệu đô la,

và của General Re là 145 triệu đô la.

Không có gì phải phân vân khi Buffett nói về Ajit Jain: "Nếu bạn nhìn thấy Ajit

tại đại hội thường niên của chúng ta, thì hãy tôn kính cúi chào ông ấy".

***

Warren Buffett hiểu biết về ngành bảo hiểm theo cách mà ít người có thể làm.

Thành công của ông xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Đó là từ sự thừa nhận

bản chất hàng hoá thiết yếu của ngành và nâng tầm những công ty bảo hiểm

của ông lên trở thành công ty có quyền kinh doanh độc lập.

Các công ty bảo hiểm bán sản phẩm mà không thể phân biệt được với những

sản phẩm của đối thủ cạnh tranh khác. Các hợp đồng bảo hiểm được tiêu

chuẩn hoá và bất kỳ ai cũng có thể sao chụp lại. Không hề có bất kỳ thương

hiệu, bằng sáng chế, lợi thế nào. Có được giấy phép thật dễ dàng và tỉ lệ bảo

hiểm là một cuốn sách công cộng. Nói cách khác, bảo hiểm là một sản phẩm

tiện nghi.

Trong kinh doanh sản phẩm tiện nghi, cách thông thường để giành thị phần là

giảm giá. Trong những giai đoạn cạnh tranh khốc liệt, những công ty khác sẵn

sàng bán hợp đồng bảo hiểm dưới giá trị của hoạt động kinh doanh còn hơn là

để mất thị phần. Buffett khẳng định Tập đoàn bảo hiểm Berkshire sẽ không

rơi vào tình trạng không có lợi nhuận. Chỉ khi tại General Re điều này xảy ra

mà Buffett đã không nhận ra.

Bạn có thể luôn thảo những hợp đồng bảo hiểm cố định. Có một thị trường

không biên giới cho những hợp đồng bảo hiểm cố định. Chúng rất có vấn đề,

bởi vì trong ngày đầu tiên thu được phí bảo hiểm, đó cũng là lần cuối cùng

bạn nhìn thấy bất kỳ khoản tiền mới nào. Kể từ đó, tất cả mọi thứ đều chảy ra.

Và đó không phải là mục đích trong cuộc sống của chúng ta.

WARREN BUFFETT, 2001

Không sẵn sàng cạnh tranh về mặt giá cả, thay vào đó, Buffett cố gắng làm các

công ty bảo hiểm của Berkshire trở nên khác biệt theo hai cách khác nhau.

Trước hết, thông qua thế mạnh tài chính. Ngày nay, xét về lợi nhuận và doanh

thu. Tập đoàn tái bảo hiểm Berkshire xếp thứ hai, chỉ sau AIG, trong ngành

tổn thất bất động sản. Thêm vào đó, tỉ lệ danh mục đầu tư của Berkshire (35,2

tỉ đô la) so với tổng phí bảo hiểm (8,1 tỉ đô la) tương đối cao

hơn mức trung bình của ngành.

Biện pháp tạo sự khác biệt thứ hai liên quan tới triết lý bảo hiểm của Buffett.

Mục tiêu của ông thật đơn giản: Luôn luôn thảo số lượng hợp đồng lớn nhưng

chỉ với những mức giá có thể chấp nhận được. Nếu giá thấp, ông bằng lòng

hạn chế việc kinh doanh. Triết lý này được thấm nhuần tại Công ty Bồi

thường Quốc gia từ thời của người sáng lập ra nó là Jack Ringwalt. Buffett nói,

kể từ đó Berkshire không bao giờ có ý định bỏ qua phương pháp này. Ngoại lệ

duy nhất là General Re, và vụ định giá thấp của công ty gây ảnh hưởng lớn tới

toàn bộ kết quả hoạt động của Berkshire trong vài năm. Ngày nay, tình trạng

khó khăn đó đã được khắc phục.

Sức mạnh tài chính của Berkshire tạo sự khác biệt cho tập đoàn bảo hiểm so

với phần còn lại của ngành. Khi các đối thủ cạnh tranh biến mất trên thương

trường bởi lo sợ trước những thảm hoạ gần đây, Berkshire vẫn luôn ở vị thế

là một một nhà cung cấp bảo hiểm chuyên nghiệp. Nói tóm lại, sự hợp nhất tài

chính mà Buffett áp dụng đối với các công ty bảo hiểm của Berkshire đã tạo

ra một hệ thống cấp quyền kinh doanh trong đó không gì khác là một ngành

kinh doanh sản phẩm tiện nghi. Không có gì đáng ngạc nhiên khi Buffett viết,

theo cách thẳng thắn thường thấy ở ông: "Ngành kinh doanh chính của chúng

ta là bảo hiểm".

Luồng tiền mặt do tập đoàn bảo hiểm Berkshire tạo ra quả là khó tin: Khoảng

44,2 tỉ đô la trong năm 2003. Điều Buffett làm với số tiền đó thể hiện bản

chất công ty của ông và cá nhân ông. Và điều đó đưa chúng ta đến chương tiếp

theo của cuốn sách.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#truyện