4. MUA MỘT DOANH NGHIỆP
Berkshire Hathaway là một tập đoàn phức hợp nhưng không phức tạp. Hiện
tại, tập đoàn bao gồm gần 100 doanh nghiệp độc lập đó là các công ty tái
bảo hiểm mà tôi đã đề cập đến ở chương trước, và rất nhiều các doanh nghiệp
phi bảo hiểm khác được mua lại thông qua nguồn lợi tức của tập đoàn bảo
hiểm. Sử dụng dòng tiền mặt đó, tập đoàn cũng mua cả cổ phiếu và trái phiếu
của các công ty phát hành ra công chúng. Xuyên suốt tất cả các hoạt động này
là lối suy nghĩ thực tế của Warren Buffett trong cách nhìn nhận một vụ đầu
tư: Khi nào ông xem xét mua lại toàn bộ công ty, hay khi nào thì ông đánh giá
để mua chứng khoán.
Buffett tin tưởng rằng, không có sự khác biệt cơ bản nào giữa hai công việc
trên. Cả hai đều biến ông trở thành chủ sở hữu của một công ty. Vì thế, theo
ông, cả hai quyết định đều nên xuất phát từ quan điểm của người chủ. Đây là
điều quan trọng nhất để hiểu phương pháp đầu tư của Buffett: Mua cổ phiếu
có nghĩa là mua một doanh nghiệp và đòi hỏi một phương pháp tương tự.
Thực tế, Buffett luôn ưu tiên sở hữu trực tiếp một công ty, bởi vì việc này cho
phép ông gây ảnh hưởng tới việc ông coi là vấn đề then chốt nhất trong một
công ty đó là: Phân bổ nguồn vốn. Nhưng khi cổ phiếu thể hiện một giá trị tốt
hơn, ông sẽ lựa chọn sở hữu một phần của một công ty thông qua việc mua cổ
phiếu thường của công tyđó.
Trong bất cứ trường hợp nào, Buffett cũng thực hiện một chiến lược giống
nhau: Ông tìm kiếm những công ty mà ông biết rõ, có lịch sử lợi nhuận ổn
định, triển vọng phát triển dài hạn, có khả năng thu được lợi nhuận tốt từ vốn
thông qua phát hành cổ phiếu với mức nợ thấp, và do những con người có đủ
khả năng và chân thật điều hành, và quan trọng là những công ty đó phải luôn
được chào bán với giá hấp dẫn. Phương thức hướng về chủ sở hữu khi xem
xét những vụ đầu tư tiềm năng là nền tảng cho phương pháp đầu tư của
Buffett.
Tất cả những gì chúng ta muốn là đầu tư vào những công ty chúng ta hiểu
biết, do những người chúng ta yêu quý điều hành, và chào giá hấp dẫn, cân
xứng với triển vọng trong tương lai.
WARREN BUFFETT
Từ quan điểm của chủ sở hữu, Buffett cho rằng mua cổ phiếu cũng giống như
mua các công ty, mua các công ty cũng giống như mua cổ phiếu. Nguyên lý
giống nhau áp dụng cho cả hai trường hợp, và vì vậy cả hai đều là những bài
học quan trọng dành cho chúng ta.
Những nguyên lý này được mô tả khá chi tiết từ Chương 5 tới Chương 8. Nói
tóm lại, chúng tạo nên Phong cách đầu tư Warren Buffett, và chúng được áp
dụng, gần như là theo bản năng, mỗi khi ông xem xét mua cổ phiếu của một
công ty, hay mua lại toàn bộ công ty. Trong chương này, chúng ta sẽ đi lướt
qua một số vụ mua bán, để từ đó chúng ta hiểu sâu sắc hơn những bài học
chúng đưa ra.
Bức hoạ khảm với nhiều ngành kinh doanh
Tập đoàn Berkshire Hathaway ngày nay được hiểu chính xác nhất là một
công ty cổ phần. Cùng với các công ty bảo hiểm, tập đoàn này còn là chủ sở
hữu của một tờ báo, một công ty sản xuất kẹo, một chuỗi cửa hàng
kem/humburger, một nhà xuất bản từ điển bách khoa, một nhà cung cấp
nguyên liệu khung tranh theo đơn đặt hàng, một công ty sơn, một công ty sản
xuất và phân phối đồng phục, một công ty kinh doanh máy hút bụi, công ty
phục vụ công cộng, một số công ty sản xuất giày, và một nhãn hiệu đồ lót quen
thuộc cùng với rất nhiều công ty khác.
Một vài trong số những công ty này, đặc biệt, những công ty mới mua lại gần
đây là những công ty mà Buffett tìm thấy bằng một cách rất Buffett: Ông đăng
quảng cáo cần mua chúng trong những báo cáo thường niên của Berkshire
Hathaway.
Tiêu chuẩn của ông thật thẳng thắn: một doanh nghiệp đơn giản, dễ hiểu với
mức doanh lợi ổn định, lợi nhuận trên vốn tốt, nợ ít, và ban quản lý tốt. Ông
quan tâm tới những công ty nằm trong mức từ 5 tỉ tới 20 tỉ đô la, những công
ty càng lớn càng tốt. Ông không quan tâm tới sự thay đổi, người tiếp quản thù
địch, hay những tình huống không rõ ràng, giá đặt mua không được xác định.
Ông hứa sẽ bảo mật hoàn toàn và phúc đáp nhanh chóng.
Trong các báo cáo thường niên của Berkshire Hathaway và trong bài bình
luận gửi các cổ đông, ông thường mô tả chiến lược mua lại theo cách này:
"Việc này đòi hỏi kỹ thuật cao. Charlie và tôi chỉ ngồi lại với nhau và đợi chờ
điện thoại reo. Đôi khi đó là một cú điện thoại gọi nhầm số".
Chiến lược này có hiệu quả. Thông qua thông báo công khai này, và cũng
thông qua những lời gợi ý từ phía các nhà quản lý ở các công ty hiện tại của
Berkshire, Buffett mua lại một loạt các công ty thành công khiến mọi người
phải kinh ngạc. Một vài trong số đó là công ty con của Berkshire trong vài
thập kỷ, và những câu chuyện về các công ty này đã trở thành một phần trong
truyền thuyết về Buffett.
Ví dụ như See's Candy Shops trở thành một chi nhánh của Berkshire kể từ
năm 1972. Vụ mua bán này quả là đáng chú ý, bởi vì nó tiêu biểu cho lần đầu
tiên Buffett rời bỏ "châm ngôn" của Ben Graham để chỉ mua những công ty bị
định giá thấp. Giá mua cuối cùng, 30 triệu đô la, cao gấp ba lần giá trị sổ sách.
Chắc chắn rằng, đó là một quyết định sáng suốt. Chỉ riêng trong năm 2003, lợi
nhuận thu được trước thuế của See đã đạt con số 59 triệu đô la, xấp xỉ hai lần
giá mua thực tế.
Trong đại hội thường niên của Berkshire năm 1997, 25 năm sau vụ mua See,
Charlie Munger hồi tưởng lại: "Đó là lần đầu tiên chúng tôi chi tiền cho chất
lượng". Buffett nói thêm: "Nếu chúng ta không mua See, chúng ta cũng sẽ
không mua Coke". Phần sau của chương này, tôi sẽ làm sáng tỏ ý nghĩa đầy đủ
của lời nhận xét đó.
Một công ty nổi tiếng khác đối với những người luôn theo sát Berkshire đó
là Nebraska Furniture Mart. Hệ thống bán lẻ khổng lồ này bắt đầu hoạt động
tại Omaha, quê hương của Buffett từ năm 1938 khi một người Nga nhập cư,
bà Rose Blumkin bán đồ đạc trong tầng hầm của bà để mở một hàng nhỏ. Năm
1983, khi bà Blumkin được nhiều người biết đến, Buffett đã trả 55 triệu đô la
để mua 80% cửa hàng củabà.
Ngày nay, Nebraska Furniture Mart, bao gồm các đơn vị bán lẻ chiếm hơn 100
nghìn m2 trên một khoảnh đất rộng, bán nhiều đồ nội thất hơn bất kỳ cửa
hàng nào khác trên đất nước. Buffett điều hành cửa hàng thứ hai đó là Mart
thứ hai, mở cửa năm 2002 tại thành phố Kansas. Trong thư gửi cổ đông năm
2003, Buffett đã liên hệ thành công của hệ thống rộng hơn 40 nghìn m2 này
với bà B. huyền thoại, người vẫn làm việc cho tới khi qua đời ở tuổi 104.
Buffett viết: "Một kinh nghiệm bà truyền lại cho chúng ta đó là nếu bạn bán
với giá thấp, khách hàng sẽ tìm bạn bằng mọi cách". Cửa hàng của chúng ta
phục vụ thành phố Kansas rộng lớn hơn, toạ lạc tại một trong những vùng
dân cư thưa thớt hơn của khu vực, đã chứng minh quan điểm của bà B. Mặc
dù có hơn 10 hécta để đỗ xe, nhưng hầu như lúc nào cũng trong tình trạng
quá tải, hết chỗ".
Tháng Một năm 1986, Buffett trả 315 triệu đô la tiền mặt để mua Scott &
Fetzer, một tập đoàn gồm 21 công ty nhỏ, bao gồm cả nhà sản xuất máy hút
bụi Kirby và bách khoa toàn thư World Book. Cho tới thời điểm đó, đây là
một trong những vụ mua bán lớn nhất của Berkshire, vượt qua sự mong đợi
lạc quan của Buffett. Đó là mô hình của một tổ chức có lợi nhuận trên vốn lớn
nhờ phát hành cổ phiếu và có số nợ không đáng kể, đó là một trong
những đặc điểm mà Buffett ưa thích. Thực tế, ông tính toán rằng, khoản lợi
nhuận trên vốn của Scott Fetzer dựa vào phát hành cổ phiếu sẽ dễ dàng đặt
nó vào top 1% trong bảng xếp hạng Fortune 500.
Rất nhiều công ty của Scott Fetzer đưa ra một danh mục những sản phẩm
công nghiệp chuyên môn hoá (một số người cho rằng thật nhàm chán), nhưng
chúng thực sự mang lại tiền cho Berkshire Hathaway. Do Buffett
mua nó, Scott Fetzer đã phân phối trên 100% phần tiền lãi của nó cho
Berkshire, trong khi đồng thời tiếp tục tăng lợi nhuận.
Trong những năm gần đây, Warren Buffett đã chuyển sự quan tâm của
Berkshire tới các công ty, thay vì cổ phiếu như trước đây. Bản thân câu
chuyện về cách thức Buffett mua lại những công ty đa dạng này quả là thú vị.
Có lẽ nên nói kỹ hơn về điểm này. Những câu chuyện giúp chúng ta hiểu biết
sâu sắc giá trị trong cách thức đánh giá các công ty của Buffett. Trong chương
này, chúng ta dành một khoảng thời gian để tìm hiểu đôi chút về ba trong số
các vụ mua lại này. Dưới đây là một số ví dụ về các vụ mua lại gần đây minh
hoạ cho một loạt các ngành rộng lớn trong tập đoàn Berkshire:
• Lợi tức của Loom, công ty sản xuất 1/3 số đồ lót nam bán trên thị trường
Mỹ. Berkshire mua lại công ty này năm 2002 với giá 835 triệu đô la, sau khi
tính toán phần lãi suất thu được trên khoản nợ giả, còn lại 730 triệu đôla.
• Garan, nhà sản xuất quần áo trẻ em, bao gồm cả dòng sản phẩm Garanimals
nổi tiếng. Berkshire đã mua lại công ty này năm 2002 với giá 270 triệu đô la.
• Mitek, công ty sản xuất phần cứng cấu trúc cho ngành công nghiệp xây
dựng, được Berkshire mua lại năm 2001 với giá 400 triệu đô la. Một phần thú
vị của vụ mua lại này là hiện tại Berkshire chỉ sở hữu 90% công ty. 10% còn
lại do 55 nhà quản lý yêu mến công ty và muốn trở thành chủ sở hữu của công
ty nắm giữ. Tinh thần doanh nghiệp của của ban quản lý này là một trong
những phẩm chất mà Buffett kiếmtìm.
• Larson-Juhl, nhà cung cấp vật liệu khung hàng đầu cho các cửa hàng khung
theo đơn đặt hàng, được Berkshire mua lại năm 2001 với giá 225 triệu đô la.
• Dịch vụ kinh doanh CORT, cho các văn phòng và các phòng đồng sở hữu
thuê đồ đạc chất lượng, được Berkshire mua lại năm 2000 với giá 467 đô la,
bao gồm cả 83 triệu đô la nợ.
• Ben Bridge Jeweler, một chuỗi cửa hàng West Coast do cùng một gia đình sở
hữu và điều hành trong bốn thế hệ. Yêu cầu khi mua lại cửa hàng đó là gia
đình Brigde vẫn tiếp tục quản lý công ty. Berkshire mua lại công ty này vào
năm 2000 với mức giá không được công bố công khai.
• Justin Industries, chuyên sản xuất ủng phương Tây (Justin, Tony Lama, và
những nhãn hiệu khác) dưới nhãn hiệu Acme, được Berkshire mua lại năm
2000 với giá 600 triệu đô la.
• Benjamin Moore, sản xuất sơn trong 121 năm được Berkshire mua lại năm
2000 với giá 1 tỉ đô la.
• Shaw Industries, nhà sản xuất thảm lớn nhất thế giới. Berkshire mua lại
87% công ty hồi năm 2000 và phần còn lại vào đầu năm 2002, với tổng số tiền
mua lại là 2 tỉ đô la. Hiện tại, ngoại trừ ngành bảo hiểm, Shaw là công ty lớn
nhất của Berkshire với lợi nhuận năm 2003 là 436 triệu đô la.
Cayton Homes
Năm 1996, James Clayton, con trai của một người lĩnh canh Tennessee, bắt
đầu ngành kinh doanh nhà di động với 25 triệu đô la tiền đi vay. Trong vòng
bốn năm, Clayton Homes bán được 700 ngôi nhà mỗi năm. Hiện tại, Clayton là
một trong những nhà sản xuất nhà di động lớn nhất nước Mỹ, với khoảng 1,2
tỉ đô la doanh thu trong năm 2003. Các mẫu nhà rất phong phú, từ loại khiêm
tốn (45 m2 giá 10 triệu đô la) tới loại xa xỉ (100 triệu đô la cho 135 m2, với
sàn nhà gỗ cứng, đồ gia dụng thép chống gỉ, và bếp nấu riêng).
Clayton có khoảng 976 đại lý bán lẻ tại Mỹ, bao gồm 302 cửa hàng thuộc sở
hữu của công ty, 86 văn phòng kinh doanh cộng đồng thuộc sở hữu của công
ty, và 588 cộng đồng sản xuất nhà tại 33 bang. Công ty cũng sở hữu và điều
hành các chi nhánh bảo hiểm, phục vụ nợ, cho vay tài chính. Công ty phát
hành cổ phiếu lần đầu vào năm 1983, và Berkshire Hathaway mua lại công ty
vào tháng Tám năm 2003 với giá 1,7 tỉ đô la.
James Clayton thu được kinh nghiệm và kiến thức từ khó khăn. Vì cha mẹ ông
từng phải làm những công việc nặng nhọc (cha ông nhặt sợi cotton, còn mẹ
ông làm việc trong một nhà máy sản xuất áo sơ mi) nên Clayton xác định sẽ
phải thoát khỏi khó khăn. Ông kiếm tiền trang trải tiền học tại trường Đại học
Tennessee bằng nghề chơi ghi ta trên đài. Cuối cùng, ông trở thành khách mời
bán thời gian cho chương trình Startime, một chương trình thay đổi hàng
tuần trên kênh truyền hình Knoville và hát cùng những người như Dolly
Parton. Khi còn học Đại học, ông bắt đầu kinh doanh ô tô second-hand với
một nhóm bạn học, nhưng đến năm 1961 công việc kinh doanh phá sản khi
ngân hàng thu hồi khoản vay của ông. "Cha tôi đã chắc chắn rằng chúng tôi sẽ
phải vào tù và tôi tự nhủ với bản thân mình rằng tôi vô tội. Tôi sẽ không bao
giờ bị tổn hại trước ngân hàng một lần nàonữa".
Vụ mua lại Clayton Homes là một câu chuyện điển hình của Buffett. Nhưng nó
lại là một câu chuyện không điển hình so với phần còn lại của giới kinh doanh.
Khía cạnh đầu tiên của câu chuyện đó là Buffett có kinh nghiệm thực tiễn với
ngành này. Năm 2002, Berkshire mua lại số chứng khoán ế ẩm từ Oakwood
Homes, một hãng sản xuất nhà di động khác.
Tháng Hai năm 2003, Al Auxier, giáo sư tài chính tại trường Đại học
Tennessee, đưa một nhóm sinh viên MBA tới Omaha để gặp gỡ Buffett trong
một buổi mà Auxier mô tả là "hai giờ cho và nhận". Đó là lần thứ 15 Auxier tổ
chức chuyến thăm viếng thế này, và nó trở thành truyền thống cho các sinh
viên tới thăm mang một món quà cảm ơn dành tặng Buffett. Lần này, món quá
là một cuốn tự truyện của James Clayton, người đã đặt công ty của ông tại
Knoxville.
Sau khi đọc xong cuốn sách, Buffett gọi cho con trai Kevin của Clayton, hiện
đang giữ chức CEO. "Như tôi nói với Kevin, rõ ràng ông vừa là người có năng
lực vừa là một thợ săn thẳng thắn. Ngay sau đó, tôi đã đưa ra lời mời chào cho
một doanh nghiệp chỉ dựa trên cuốn sách của Jim, đánh giá của tôi về Kevin,
tình trạng tài chính công khai của Clayton và điều tôi đã học được từ kinh
nghiệm Oakwood". Hai tuần sau, Berkshire thông báo vụ mua lại Clayton
Homes. Buffett nói: "Tôi thực hiện thương vụ làm ăn qua điện thoại mà chưa
bao giờ nhìn thấy nó".
Mùa thu năm 2003, Buffett được mời tới tham dự hội nghị chuyên đề MBA
của trường Đại học Tennessee. Ông kể lại câu chuyện của Clayton, và sau đó
thuyết trình trước toàn thể các sinh viên từ trường đại học Berkshire
Hathaway. Mỗi sinh viên cũng được tặng một cổ phiếu hạng B của Berkshire
và giảng viên của họ, Al Auxier, được tặng một cổ phiếu hạngA.
McLance Company
Năm 1894, Robert McLane thoát khỏi nạn đói hậu Nội chiến của vùng Nam
Carolina, chuyển tới sinh sống tại Cameron, bang Texas, và bắt đầu mở một
cửa hàng tạp phẩm nhỏ. Qua nhiều năm, ông phát triển cửa hàng thành một
cửa hàng tạp phẩm bán buôn và công ty phân phối. Con trai ông, Robert D.
McLane, nổi tiếng với tên đệm Drayton, đã tham gia công ty năm 1921. Con
trai của Drayton, Drayton Jr. bắt đầu làm việc trong công ty gia đình khi lên
chín tuổi, và đã dành nhiều ngày thứ Bảy suốt thời niên thiếu để lau sàn nhà
kho. Sau khi tốt nghiệp đại học, ông tham gia công ty toàn thời gian.
Cuối cùng, Drayton Jr. thuyết phục được cha ông rời công ty tới gần một con
đường cao tốc giữa các tiểu bang. Sau đó đến năm 1962, toàn thể công ty tự
động hoá với việc sử dụng máy vi tính. Năm 1990, ông bán công ty cho
người bạn thân Sam Walton, và McLane trở thành một chi nhánh của Wal -
Mart, cung cấp cho các cửa hàng của Wal - Mart và các cửa hàng câu lạc bộ của
Sam, cũng như các cửa hàng tiện lợi và các nhà hàng ăn nhanh trên khắp đất
nước với tất cả mọi thứ từ đậu phộng tới hạttiêu.
Năm 2003, McLane trở thành nhà phân phối lớn nhất ở Mỹ cho các cửa hàng
ở góc phố và cửa hàng tiện lợi. Các hệ thống phần mềm cải tiến giá cả, cước
phí, vận chuyển và quy trình bán hàng và dịch vụ vận chuyển hoàn hảo đã
biến công ty thành một công ty vận chuyển trọn gói hiệuquả.
Một công ty được điều hành tốt, hiệu quả được xây dựng dựa trên nền tảng
những nguyên lý bền vững và thể hiện khả năng lợi nhuận bền vững chính là
điều Warren Buffett mong muốn. Tháng Năm năm 2003, Berkshire thông báo
công ty mua lại McLane với giá 1,45 tỉ đô la tiền mặt và cộng thêm một khoản
1,2 tỉ đô la nợ phảitrả.
Vụ mua lại khiến McLane tăng trưởng thậm chí mạnh hơn. Ví dụ như, thông
qua vụ mua bán giúp công ty theo đuổi những hợp đồng phân phối với một
chuỗi siêu thị và các đối thủ cạnh tranh của Wal-Mart như Target, và Dollar
General. Trong thư gửi các cổ đông năm 2003, Buffett viết: "Trước đây, một
số nhà bán lẻ lảng tránh McLane bởi vì công ty này do đối thủ cạnh tranh
chính của họ làm chủ sở hữu. Nhưng Grady Rosier, CEO cấp cao của
McLane, đã giành được một số trong các hợp đồng này. Ông đã bước một
bước dài trong ngày hoàn tất sự thỏa thuận mua bán và nhiều điều khác nữa
sẽ tới".
The Pampered Chef
Năm 1980, Doris Christopher, cựu giảng viên môn kinh tế học gia đình và là
người mẹ luôn ở nhà, đang tìm kiếm một công việc bán thời gian để có thêm
thu nhập cho gia đình nhưng vẫn cho phép bà có thời gian dành cho hai con
gái bé bỏng. Bà quyết định nâng cao những gì bà biết đó là nấu ăn và dạy học.
Và bà đã nảy ra tới ý tưởng bán những đồ dùng nấu bếp tại nhà. Vì vậy, bà
quyết định mượn ba nghìn đô la tiền bảo hiểm nhân thọ, đi mua sắm tại một
siêu thị bán buôn và mua hết 75 đô la những mặt hàng bà yêu thích,
sau đó bà nhờ một người bạn dẫn chương trình trong bữa tiệc giới thiệu sản
phẩm.
Christopher có phần lo lắng trước bữa tiệc đầu tiên, nhưng bữa tiệc đó đã
thành công rực rỡ. Không chỉ tất cả mọi người đều có một khoảng thời gian
tuyệt vời mà một số vị khách mời còn mong muốn được dẫn chương trình cho
bữa tiệc. Đó là điểm khởi đầu cho Pampered Chef, một công ty chuyên bán các
đồ dùng nấu bếp cho những người sành ăn qua kênh bán hàng trực tiếp và
những bữa tiệc tại nhà.
Người phụ nữ 34 tuổi Christopher, không hề được đào tạo về kinh doanh, đã
khởi nghiệp tại tầng hầm trong ngôi nhà của bà ở Chicago bằng ba nghìn đô la
đi vay. Trong năm đầu tiên, làm việc cùng chồng, bà có doanh thu 50 nghìn đô
la. Năm 1994, Pampered Chef được xếp hạng trong danh sách 500 công ty tư
nhân có tốc độ phát triển nhanh nhất tại Mỹ, và Christopher được tạp chí
Working Woman công nhận là một trong top 500 phụ nữ là chủ doanh nghiệp
xuất sắc.
Doris Christopher khởi đầu công ty với một niềm tin mãnh liệt rằng cùng sum
họp trong một bữa ăn sẽ giúp những thành viên trong gia đình gần gũi nhau
theo cách mà chỉ một số ít người khác có kinh nghiệm sánh được. Triết lý kinh
doanh đó đã hình thành và dẫn lối cho Pampered Chef từ khi mới bắt đầu
hoạt động, và nó chính là điểm mấu chốt trong phương pháp kinh doanh:
Một bài thuyết trình của người chào hàng thân thiện, thực tế cho những người
nội trợ theo cách liên hợp chất lượng của đời sống gia đình với chất lượng của
sản phẩm nấu bếp.
Rất nhiều "nhà tư vấn bếp núc" của công ty, như họ vẫn được gọi, là những
người mẹ luôn ở nhà, và phần lớn việc bán hàng được tiến hành tại nhà họ
trong các "chương trình nấu bếp". Đó là những chương trình nấu ăn nơi
những vị khách được chứng kiến trực tiếp những sản phẩm nấu bếp và công
thức làm món ăn cùng kết hợp với nhau, học nhanh chóng và dễ dàng những
kỹ thuật chuẩn bị đồ ăn và thu nhận những mẹo vặt về cách đãi khách và tạo
sự thoải mái cho khách. Các sản phẩm đều là những dụng cụ nấu bếp và tủ để
thức ăn có chất lượng cao. Khoảng 80% những sản phẩm này chỉ duy nhất có
tại công ty hoặc chỉ có thể mua tại các đại lý bán hàng của The Pampered
Chef.
Ngày nay, Pampered Chef có 950 nhân viên tại Mỹ, Đức, Anh, và Canada. Các
sản phẩm của công ty được bán thông qua trên 71 nghìn nhà tư vấn độc lập
trong những chương trình nấu ăn tại nhà. Hơn một triệu chương trình biểu
diễn nấu bếp được tổ chức trên khắp nước Mỹ trong năm 2002, tạo ra doanh
thu bán hàng đạt 730 triệu đô la. Và món nợ duy nhất công ty đó là 3 nghìn đô
la tiền ban đầu.
Năm 2002, Doris Christopher nhận ra rằng trong trường hợp bà bất ngờ bị
ốm hoặc quyết định phát triển chậm lại, Pampered Chef cần phải có một kế
hoạch trù bị. Vì vậy, theo lời khuyên của những chủ ngân hàng của bà ở
Goldma Sachs, bà đã tiếp cận Warren Buffett. Tháng Tám năm đó, Christopher
và người sau đó trở thành CEO của bà, bà Sheila O'Connell Cooper, đã có buổi
gặp gỡ Buffett tại văn phòng trụ sở chính của ông ở Omaha. Một tháng sau,
Berkshire thông báo công ty mua lại Pampered Chef với giá xấp xỉ 900 triệu
đô la.
Nhớ lại buổi gặp gỡ hồi tháng Tám, Buffett viết cho các cổ đông của Berkshire
rằng: "Tôi chỉ mất khoảng 10 giây để quyết định rằng đây là hai nhà quản lý
mà tôi mong muốn hợp tác, và chúng tôi nhanh chóng ký kết hợp đồng. Tôi tới
tham dự một bữa tiệc của Pampered Chef và quả thật là dễ dàng nhận ra tại
sao ngành kinh doanh này lại thành công. Những sản phẩm của công ty, trong
phần lớn tài sản, đều có phong cách riêng và có tính hữu dụng cao, và những
nhà tư vấn có kiến thức uyên thâm và rất nhiệt tình. Mọi người đều có một
khoảng thời gian thoải mái".
***
Buffett thường được hỏi là ông sẽ mua những loại hình công ty nào trong
tương lai. Ông nói, trước hết, tôi sẽ tránh những công ty sản xuất hàng tiêu
dùng và những nhà quản lý mà tôi không mấy tin tưởng. Ông đặt ra ba tiêu
chuẩn: Đó phải là loại công ty mà ông hiểu, hoạt động kinh doanh tốt, và phải
do những nhà quản lý đáng tin cậy điều hành. Đó cũng là những tiêu chuẩn
ông tìm kiếm khi mua cổ phiếu và cùng với lý do tương tự.
Đầu tư vào chứng khoán
Rõ ràng là rất ít người trong chúng ta sẽ mua toàn bộ công ty như Buffett
đang làm. Những câu chuyện về các công ty được đề cập trong chương này
bởi vì chúng giúp chúng ta hiểu biêt sâu sắc về lối suy nghĩ của Buffett.
Lối suy nghĩ tương tự như vậy cũng áp dụng cho những quyết định của ông
khi mua cổ phiếu. Điều đó thể hiện một vài ví dụ mà những người bình
thường có thể làm theo. Chúng ta không thể mua cổ phiếu theo quy mô giống
như Warren Buffett, nhưng chúng ta có thể thu được lợi nhuận khi quan sát
điều ông làm.
Cuối năm 2003, danh mục đầu tư cổ phiếu thường của Berkshire Hathaway
đạt tổng giá trị thị trường là hơn 35 tỉ đô la, tăng gần 27 tỉ so với giá mua ban
đầu. Trong danh mục đầu tư đó, Berkshire Hathaway sở hữu 200 triệu cổ
phiếu của Coca-Cola, 96 triệu cổ phiếu của Công ty Gillette và hơn 56 triệu cổ
phiếu của Wells Fargo & Company. Đồ uống có ga, dao cạo dâu, những ngân
hàng lân cận đều là những sản phẩm và dịch vụ rất quen thuộc với chúng ta.
Không có gì là bí mật, không có gì là công nghệ cao, không có gì khó hiểu cả.
Đó là một trong những niềm tin kiên định nhất của Buffett: Sẽ vô ích khi bạn
đầu tư vào một công ty, hay một ngành mà bạn không hiểu, bởi vì bạn sẽ
không thể biết nó đáng giá bao nhiêu, hay theo dõi xem nó đang hoạt động
thế nào.
Công ty Coca-Cola
Coca-Cola là nhà sản xuất, tiếp thị, và phân phối đồ uống có ga và nước ngọt
lớn nhất thế giới. Sản phầm đồ uống có ga của công ty, lần đầu tiên được bán
ở Mỹ vào năm 1886, giờ đây đã có mặt tại hơn 195 quốc gia trên thế giới.
Mối quan hệ giữa Buffett và Coca-Cola đưa chúng ta trở lại với thời thơ ấu của
ông. Ông đã có lon Coca-Cola lần đầu tiên khi ông lên năm tuổi. Ngay sau đó,
ông bắt đầu mua sáu lon Coke với số tiền 25 xu tại cửa hàng tạp phẩm của ông
nội và bán lại chúng cho những người hàng xóm với giá năm xu một lon.
Buffett thừa nhận, trong 15 năm tiếp theo, ông quan sát mức tăng trưởng phi
thường của Coca-Cola, nhưng ông đã mua nhà máy dệt, cửa hàng bán lẻ, và
những nhà sản xuất thiết bị nông trại và cối xay gió. Thậm chí trong năm
1986, khi ông công bố chính thức rằng Cherry Coke (Coke hương anh đào) sẽ
trở thành công ty đồ uống có ga chính thức trong các đại hội thường niên của
Berkshire Hathaway, Buffett vẫn không mua một cổ phiếu nào của Coca-Cola.
Cho tới tận hai năm sau, mùa hè năm 1988, Buffett mới mua những cổ phiếu
đầu tiên củaCoca-Cola.
Sức mạnh của Coca-Cola không chỉ là những sản phẩm mang nhãn hiệu của
nó, mà còn là hệ thống phân phối vô địch trên toàn thế giới. Ngày nay, doanh
thu bán sản phẩm Coca-Cola trên toàn cầu chiếm 69% tổng doanh thu của
công ty và 80% lợi nhuận của nó. Cùng với Amatil Coca-Cola, công ty còn thu
lợi nhuận trên vốn tại những nhà máy đóng chai ở Mexico, Nam Mỹ, Đông
Nam \, Đài Loan, Hồng Kông, và Trung Quốc. Trong năm 2003, công ty đã bán
hơn 19 tỉ thùng sản phẩm đồ uống.
Buffett nói, công ty tốt nhất để sở hữu là công ty qua thời gian có thể tận dụng
lượng vốn lớn với tỉ lệ lợi tức rất cao. Mô tả này hoàn toàn phù hợp với Coca-
Cola. Rất dễ hiểu tại sao Buffett lại để ý tới Coca-Cola, nhãn hiệu nổi tiếng nhất
trên toàn thế giới, trở thành công ty cấp quyền kinh doanh giá trị nhất thế
giới.
Do khả năng tài chính hùng mạnh, và cũng là do sản phẩm của hãng quá nổi
tiếng, tôi đã sử dụng Coca-Cola là ví dụ điển hình trong từ Chương 5 tới
Chương 8, để mô tả chi tiết nguyên lý trong Phong cách đầu tư Warren
Buffett.
Tôi mua những công ty, không phải cổ phiếu, những công ty mà tôi sẵn sàng
sở hữu mãi mãi.
WARREN BUFFETT, 1998
Công ty Gillette
Gillette là một công ty sản xuất sản phẩm tiêu dùng quốc tế, sản xuất và phân
phối lưỡi và dao cạo râu, đồ trang điểm, và mỹ phẩm, văn phòng phẩm, máy
cạo râu điện, những đồ gia dụng lặt vặt, và những đồ dùng và sản phẩm chăm
sóc răng miệng. Công ty có hệ thống sản xuất tại 14 quốc gia trên thế giới và
phân phối sản phẩm tới hơn 200 công ty và vùng lãnh thổ. Hệ thống sản xuất
nước ngoài chiếm hơn 63% doanh thu và lợi nhuận của Gillette.
King C. Gillette đã sáng lập ra Gillette vào thời kỳ chuyển giao của thế kỷ XX.
Khi còn là một chàng trai, Gillette đã dành thời gian vạch ra chiến lược đổi
đời. Một người bạn gợi ý rằng ông nên sáng chế ra một sản phẩm mà chỉ dùng
một lần rồi vứt đi, và thay thế nó bằng cái khác. Trong khi làm nhân viên bán
hàng cho Crown Cork & Seal, Gillette đã nảy ra ý tưởng sáng chế ra sản phẩm
dao cạo râu chỉ dùng một lần. Trong năm 1903, công ty non trẻ của ông bắt
đầu bán dao cạo râu an toàn với 25 lưỡi cạo râu chỉ dùng một lần với giá 5 đô
la.
Dạy PTKT: 1.490.000 VNĐ/khóa – D
acebook.com/ytuongdautuchungkho
Ngày nay, Gillett là nhà sản xuất và phân phối lưỡi và dao cạo râu hàng đầu.
Lưỡi dao cạo râu chiếm xấp xỉ 1/3 doanh thu bán hàng của công ty nhưng
chiếm tới 2/3 lợi nhuận của công ty. Thị phần trên toàn cầu của công ty là
72,5%, gấp gần sáu lần đối thủ cạnh tranh gần nhất. Công ty này chiếm 70%
thị phần tại châu Âu, 80% tại châu Mỹ La tinh. Doanh thu bắt đầu tăng tại
Đông ]u, Ấn Độ, và Trung Quốc. Cứ 1 lưỡi dao cạo Gillette bán được tại Mỹ, thì
công ty sẽ bán được 5 chiếc ở thị trường nước ngoài. Thực tế, Gilllette phổ
biến trên toàn thế giới đến nỗi trong nhiều ngôn ngữ tên của hãng trở thành
từ để chỉ "lưỡi dao cạo râu".
Buffett bắt đầu quan tâm tới Gillette từ những năm 1980. Các nhà quan sát
Phố Wall bắt đầu xem công ty là một nhà sản xuất hàng tiêu dùng chậm phát
triển, đang ở giai đoạn chín muồi để mua lại. Lợi nhuận biên dao động giữa
9% và 11%, lợi nhuận thu được trên vốn dàn trải ra mà không hề có dấu hiệu
cải thiện, và tăng trưởng lợi nhuận và giá trị thị trường giảm đáng kể (xem
hình 4.1 và 4.2). Nói tóm lại, công ty có dấu hiệu trìtrệ.
CEO Colman Mcokler đã đánh bại bốn dự định mua lại trong suốt thời gian đó,
lên tới đỉnh cao là cuộc chiến hết sức gay cấn chống lại Coniston Partners hồi
năm 1988. Gillette chiến thắng trong gang tấc, nhưng việc đó cũng buộc công
ty phải mua lại 19 triệu cổ phiếu của Gillette với giá 45 đô la một cổ phiếu.
Giữa năm 1986 và năm 1988, công ty đã thay thế 1,5 tỉ đô la số vốn cổ đông
bằng nợ, và trong một thời gian ngắn, Gillette rơi vào tình trạng vốn ròng âm.
Lúc đó, Buffett gọi cho người bạn Joseph Sisco của ông, là thành viên của Hội
đồng Quản trị Gillette, gợi ý rằng Berkshire sẽ đầu tư vào công ty. Buffett nói:
"Ngành kinh doanh của Gillette là ngành chúng tôi rấtthích".
Hình 4.1 Lợi nhuận trên vốn của Gillette
Hình 4.2 Giá trị thị trường của Gillette
F
ạy PTCB: 3.590.000 VNĐ/khóa
an 73
"Charlie và tôi nghĩ rằng chúng tôi hiểu tình trạng kinh tế của công ty và vì
vậy, tin rằng chúng tôi có thể phỏng đoán khá thông minh về tương lai của
Gillette". Gillette đã phát hành 600 triệu đô la cổ phiếu ưu đãi có thể chuyển
đổi cho Berkshire vào tháng Bảy năm 1989 và sử dụng quỹ để trả dần nợ nần.
Buffett đã nhận được 8,75% chứng khoán ưu đãi có thể chuyển đổi với quy
định bắt buộc phải thanh toán hết nợ trong vòng 10 năm và sự lựa chọn
chuyển thành cổ phiếu thường của Gillette với giá 50 đô la một cổ phiếu, cao
hơn 20% so với mức giá ở thời kỳđó.
Năm 1989, Buffett tham gia Ban Giám đốc của Gillette. Cùng năm đó, công ty
giới thiệu một sản phẩm mới rất thành công, sản phẩm Senor. Đó là khởi đầu
cho bước ngoặt của công ty. Doanh thu của Senor đã mở rộng triển vọng của
Gillette. Lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu bắt đầu tăng 20% một năm. Lợi nhuận
biên trước thuế tăng từ 12% lên 15% và lợi nhuận trên vốn cổ phần đạt mức
40%, gấp hai lần lợi suất đầu những năm1980.
Tháng Hai, năm 1991, công ty thông báo một đợt chia cổ phiếu với tỉ lệ 2: 1.
Berkshire đã chuyển số cổ phiếu ưu đãi và thu được 12 triệu cổ phiếu thường,
hay 11% số cổ phiếu nợ còn tồn của Gillette. Chỉ trong vòng chưa đầy hai
năm, vụ đầu tư 600 triệu đô la của Berkshire vào Gillette đã tăng lên 875 triệu
đô la. Bước tiếp theo của Buffett là tính toán giá trị của 12 triệu cổ phiếu đó.
Trong Chương 8, chúng ta biết ông tiến hành việc này.
Ngành kinh doanh lưỡi dao cạo râu của Gillette hưởng lợi chính từ quá trình
toàn cầu hoá. Điển hình là, Gillette bắt đầu với với những chiếc lưỡi dao cạo
chất lượng thấp và dần dần giới thiệu những hệ thống cạo râu cải tiến. Công
ty thu được lợi nhuận không chỉ từ việc tăng doanh thu đơn vị mà còn từ
việc cải thiện và ổn định lợi nhuận biên. Tương lai của Gillette có nhiều dấu
hiệu tươi sáng. Buffett nói: "Chúng ta có thể vui vẻ đi ngủ mỗi tối khi biết rằng
có 2,5 tỉ người đàn ông trên thế giới sẽ phải cạo râu vào buổi sáng hôm sau".
Công ty Washington Post
Washington Post ngày nay là một tập đoàn đại chúng với một hệ thống kinh
doanh gồm xuất bản báo chí, phát sóng truyền hình, hệ thống truyền hình cáp,
xuất bản tạp chí, và cung cấp cả dịch vụ giáo dục. Bộ phận báo chí xuất bản tờ
Washington Post, Everest Herald, và Gazette Newspapers, một nhóm gồm 39
tờ báo tuần. Bộ phận phát sóng truyền hình sở hữu sáu đài thu phát truyền
hình đặt tại Detroit, Miami, Orlando, Houston, San Anto-noi, và
Jacksonille, Florida. Bộ phận hệ thống truyền hình cáp cung cấp dịch vụ
truyền hình kỹ thuật số và cáp cho hơn 1,3 tỉ thuê bao. Bộ phận tạp chí thì
xuất bản tờ Newsweek, với tổng số tạp chí phát hành trong nước là trên 3
triệu bản và trên 600 nghìn bản phát hành quốc tế.
Cùng với bốn bộ phận chính trên, Washington Post còn sở hữu Trung tâm
giáo dục Stanley H. Kaplan, một mạng lưới trường học rộng lớn chuyên ôn thi
cho các sinh viên chuẩn bị vào đại học và những kỳ thi cấp bằng chuyên
nghiệp. Nổi tiếng nhất là chương trình độc đáo của trung tâm giúp những học
sinh phổ thông trung học làm tốt các bài kiểm tra của Scholastic Aptitude
Tests, Kaplan đã mở rộng rất mạnh trong những năm gần đây. Hiện nay,
chương trình này bao gồm cả các lớp học sau khi tốt nghiệp phổ thông cho
trình độ K-12, trường luật trực tuyến, nguồn tài liệu chuẩn bị kiểm tra cho
các kỹ sư và chuyên gia phân tích tài chính, và những trường cơ sở đại học
với những chương trình đào tạo trong lĩnh vực kinh doanh, tài chính, kỹ
thuật, y tế, và nhiều môn học khác. Năm 2003, tổng doanh thu của Kaplan đạt
838 triệu đô la, là một nhân tố đóng góp quan trọng cho Washington Post.
Công ty sở hữu 28% Cowles Media - là hãng xuất bản Minneapolis Star
Tribune, một vài tờ báo quân đội, và 50% dịch vụ tin tức Los Angeles -
Washington.
Ngày nay, Washington Post là một công ty trị giá 8 tỉ đô la, sản sinh ra mức
doanh thu thường niên đạt 3,2 tỉ đô la. Những thành tựu công ty đạt được
thậm chí còn đặc biệt ấn tượng nếu bạn xem xét công ty ở thời điểm các đây
17 năm khi công ty chỉ kinh doanh một ngành duy nhất: xuất bản báo chí.
Năm 1931, Washington Post là một trong năm tờ nhật báo cạnh tranh nhau
dành độc giả. Hai năm sau, tờ Post không thể chi trả phí in ấn đã bị đem phát
mại. Mùa hè năm đó, công ty bị đem bán đấu giá để trả nợ. Tỉ phú Eugene
Meyer mua lại tờ báo với giá 852 nghìn đô la. Trong hai thập kỷ kế tiếp, ông
đã ủng hộ giúp đỡ hoạt động của công ty cho tới khi công ty bắt đầu làm ăn có
lãi.
Công việc điều hành quản lý tờ báo được chuyển sang cho Philip Graham, một
luật sư xuất chúng được hưởng sự giáo dục của trường Harvard và đã kết hôn
với cháu gái Katherine của Meyer. Năm 1954, Phil Graham thuyết phục
Eugene Meyer mua lại tờ báo đối thủ cạnh tranh, tờ Times - Herald. Sau đó,
trước khi chết bi thảm vào năm 1963, Graham đã mua lại tạp chí
Newsweek và hai trạm thu phát truyền hình. Chính Phil Graham là người có
công lao chuyển đổi tờ Washington Post từ một tờ báo đơn lẻ thành một công
ty tin tức và thông tin đại chúng.
Sau khi Phil Graham qua đời, việc quản lý công ty được chuyển giao sang cho
vợ ông, bà Katherine. Mặc dù bà không có chút kinh nghiệm quản lý một công
ty nhưng bà đã nhanh chóng nổi bật khi đương đầu với những vấn đề khó
khăn trong kinh doanh.
Katherine Graham nhận ra rằng để thành công, công ty cần có một người ra
quyết định, chứ không phải là một người chăm sóc. Bà nói: "Tôi nhanh
chóng nhận ra rằng mọi thứ không đứng yên một chỗ. Bạn phải ra quyết
định". Hai quyết định có ảnh hưởng rõ rệt tới tờ Washington Post đó là việc
tuyển dụng Ben Braddle làm quản lý biên tập của tờ báo và sau đó mời
Warren Buffett làm giám đốc công ty. Bradlee khuyến khích Katherine
Graham cho xuất bản tờ Pentagon Papers và theo đuổi cuộc điều tra
Watergate và mang lại cho tờ Washington Post uy tín là tờ báo được trao
thưởng. Buffett đã dạy Katherine Graham cách điều hành một doanh nghiệp
thành công.
Buffett lần đầu tiên gặp Katherine Graham vào năm 1971. Lúc đó, Buffett sở
hữu cổ phiếu của tờ New Yorker (Người New York). Nghe nói về việc người ta
có thể sẽ bán tờ tạp chí, ông đã hỏi Katherine Graham liệu tờ Washington Post
có quan tâm tới vụ mua bán đó không. Mặc dù vụ mua bán trở thành hiện
thực, Buffett đã rất ấn tượng với nhà xuất bản của Washington Post.
Cùng năm đó, Katherine Graham quyết định tiến hành đợt phát hành cổ phiếu
đầu tiên của Washington Post. Hai loại cổ phiếu đã được tạo ra. Loại cổ phiếu
thường A dành cho phần lớn Ban Giám đốc, vì vậy có thể kiểm soát hiệu quả
công ty. Cổ phiếu hạng A vẫn do gia đình Graham nắm giữ. Cổ phiếu hạng B
dành cho phần thiểu số của Ban Giám đốc. Tháng Sáu năm 1971, tờ
Washington Post đã phát hành 1 triệu 345 nghìn cổ phiếu hạng B. Đáng kể là,
chỉ hai ngày sau, mặc dù mối đe doạ từ phía chính quyền liên bang, Katherine
Graham đã cho phép Ben Braddlee xuất bản tờ Pentagon Papers.
Trong hai năm tiếp theo, khi kinh doanh báo chí đang dần cải thiện, thì bầu
không khí ở Phố Wall chuyển sang ảm đạm. Đầu năm 1973, chỉ số công
nghiệp trung bình Dow Jones bắt đầu suy giảm. Giá cổ phiếu của
Washington Post cũng trượt theo. Tháng năm năm này, chỉ số giảm 14 điểm
chỉ còn 23 đô la. Cùng tháng đó, cổ phiếu của IBM đã tụt hơn 69 điểm, Cục Dự
trữ Liên bang đã đẩy tỉ lệ chiết khấu lên 6%, và chỉ số Dow Jones giảm 18 điểm
- đợt thua lỗ lớn nhất trong vòng ba năm. Cùng lúc đó, Warren Buffett lặng lẽ
mua cổ phiếu của Washington Post (xem hình 4.3). Tới tháng sáu, ông mua
được 467.150 cổ phiếu với giá trung bình là 22,75 đô la, tổng trị giá
10.628.000 đô la.
Katherine Graham lúc đầu lo ngại trước ý kiến một thành viên không thuộc
gia đình nắm giữ quá nhiều cổ phiếu của Washington Post, mặc dù cổ phiếu
không có quyền kiểm soát. Buffett đã đảm bảo với bà rằng việc mua bán của
Berkshire chỉ là mục đích đầu tư thuần tuý. Để bà an tâm hơn, ông đưa ra ý
kiến trao cho con trai Don của bà, người dự kiến tiếp quản công ty một ngày
nào đo, giấy uỷ quyền biểu quyết những cổ phiếu của Berkshire. Thế là vấn đề
được giải quyết. Katherine Graham đáp lại bằng việc mời Buffett tham gia Ban
Giám đốc của công ty trong năm 1971 và nhanh chóng đưa ông lên làm Chủ
tịch Uỷ ban tài chính.
Katherine Graham qua đời tháng bảy năm 2001, sau một cơn đột quỵ bà đã bị
chấn thương vùng đầu. Warren Buffett là một trong những người đã tới chia
buồn trong đám tang của bà được tổ chức tại Thánh đường Quốc gia ở
Washington.
Hình 4.3 Giá trên một cổ phiếu của Washington Post
Donald E. Graham, con trai của Phil và Katherine, là Chủ tịch Hội đồng Quản
trị của Washington Post. Don Graham tốt nghiệp trường Đại học Harvard năm
1966 với chuyên ngành lịch sử và văn học Anh. Sau khi tốt nghiệp, ông phục
vụ trong quân đội hai năm. Biết rằng cuối cùng ông sẽ là người điều hành
Washington Post, Graham quyết định phải thông thạo hơn nữa với thành phố.
Ông chọn một cách thật khác biệt là tham gia vào lực lượng cảnh sát khu đô
thị của Washington và trải nghiệm 14 tháng làm nghề cảnh sát đi tuần khu
vực thứ 9. Năm 1971, Graham tới làm phóng viên tại Washington
Post. Sau đó, ông dành 10 tháng làm phóng viên cho tờ NewsWeek tại bang
Los Angeles. Năm 1974, Graham trở lại Post và trở thành Phó Ban phụ trách
mảng thế thao. Năm đó, ông cũng được bổ nhiệm vào Ban Giám đốc của công
ty.
Vai trò của Buffett tại Washington Post ngày càng được thể hiện rộng rãi. Ông
giúp Katherine Graham kiên nhẫn trong suốt cuộc bãi công hồi những năm
1970, và ông cũng dạy Don Graham kinh doanh, giúp Graham hiểu được vai
trò quản lý và trách nhiệm của những người chủ công ty. Don Graham nói:
"Trong tài chính, Buffett là người thông minh nhất mà tôi từng biết. Tôi không
biết người thứ hai là ai".
Xem xét câu chuyện ở khía cạnh ngược lại, rõ ràng là Post cũng đóng một vai
trò quan trọng đối với Buffett. Nhà báo tài chính Andrew Kilpatrick, người
theo sát con đường sự nghiệp của Buffett trong nhiều năm, tin rằng vụ đầu tư
vào Washington Post đã "bảo vệ vững chắc uy tín của Buffett là một nhà đầu
tư bậc thầy". Berkshire không hề bán bất kỳ một cổ phiếu nào của
Washington Post kể từ lần mua đầu tiên vào năm 1973. Năm 2004, cổ phiếu
hạng B được bán với giá hơn 900 đô la một cổ phiếu, là cổ phiếu đắt giá thứ
hai trên thị trường chứng khoán New York. Cổ phần của Berkshire hiện tại trị
giá hơn 1 tỉ đô la, và như vậy vụ đầu tư ban đầu của Buffett đã tăng giá trị lên
hơn 15 lần.
Wells Fargo & Company
Tháng 10 năm 1990, Berkshire Hathaway công bố mua 5 triệu cổ phiếu của
Wells Fargo & Company với giá trung bình là 57,88 đô la một cổ phiếu, tổng
trị giá vụ đầu tư là 289 triệu đô la. Với vụ mua bán này, Berkshire trở thành
cổ đông lớn nhất của ngân hàng, sở hữu 10% số cổ phiếu nợ.
Đó là một bước đi gây nhiều tranh cãi. Đầu năm đó, giá cổ phiếu bán ở mức
cao là 86 đô la, sau đó rớt giá khủng khiếp khi các nhà đầu tư đồng loạt bỏ qua
các ngân hàng California. Vào thời điểm đó, West Coast đang vật lộn với cuộc
suy thoái nặng nề và một số người đã đầu cơ vào các ngân hàng đó, danh mục
đầu tư nợ của họ chứa đầy những tài sản cầm cố thương mại và nhà ở, đều
đang có vấn đề. Wells Fargo, với hoạt động kinh doanh bất động sản có lãi
nhất của bất kỳ ngân hàng California nào, đã được coi là đặc biệt nguy hiểm.
Trong những tháng sau khi Berkshire thông báo, cuộc chiến đấu dành Well
Fargo cũng tương tự như một cuộc chiến nặng ký. Buffett, ở một bên, là con
bò đực, cược 289 triệu đô la rằng Wells Fargo sẽ tăng giá trị. Ở phe bên kia,
một số nhà đầu tư thiển cận là những con gấu, cược rằng Wells Fargo sẽ giảm
49% trong năm đó, và sẽ còn sa sút hơn nữa. Phần còn lại của giới đầu tư
quyết định cũng ngồi lại và quan sát.
Hai lần trong năm 1992, Berkshire mua nhiều cổ phiếu hơn, góp phần đưa
tổng giá trị lên tới 63 triệu đô la vào cuối năm. Giá dần vượt qua 100 đô la
trên một cổ phiếu nhưng các nhà đầu tư thiển cận vẫn cá rằng cổ phiếu sẽ
giảm một nửa giả trị. Buffett tiếp tục mua thêm, và cuối năm 2003, Berkshire
sở hữu hơn 56 triệu cổ phiếu, với giá thị trường là 4,6 tỉ đô la và tổng chi phí
mua tích luỹ là 2,8 tỉ đô la. Trong năm 2003, Moody's đã dành cho Wells Fargo
mức xếp hạng AAA (Mức xếp hạng tốt nhất, rủi ro thấp nhất), ngân hàng duy
nhất trên nước Mỹ có sự khác biệt đó.
Nhà đầu tư thông minh
Nét tiêu biểu trong triết lý đầu tư của Buffett đó là ông hiểu rõ ràng rằng khi
sở hữu cổ phiếu, anh sẽ sở hữu công ty, không phải là một mẩu giấy. Theo
Buffett, ý tưởng mua cổ phiếu mà không hiểu chức năng hoạt động của công
ty sản phẩm và dịch vụ, mối quan hệ lao động, chi phí nguyên liệu thô, nhà
máy và trang thiết bị, những yêu cầu tái đầu tư vốn, hàng tồn kho, những thứ
có thể thu được và nhu cầu vốn lưu động là không hợp lý. Trạng thái tâm lý
này phản ánh thái độ của một chủ doanh nghiệp trái ngược với chủ sở hữu
chứng khoán, và là trạng thái tâm lý duy nhất một nhà đầu tư nên
có. Tóm lược Nhà đầu tư thông minh, Benjamin Graham đã viết: "Công việc
đầu tư là thông minh nhất khi nó thực dụng nhất". Buffett nói: "Đó là những
từ quan trọng nhất từng được viết ra về đầu tư".
Một người nắm giữ cổ phiếu sẽ lựa chọn hoặc là trở thành người chủ doanh
nghiệp, hoặc là người nắm giữ những cổ phiếu có thể bán được. Chủ sở hữu
cổ phiếu thường hiểu rằng họ chỉ sở hữu một mẩu giấy từ lâu đã bị loại bỏ
khỏi các bản báo cáo tài chính của công ty. Họ cư xử như thể giá thị trường
luôn thay đổi phản ánh chính xác giá trị của họ hơn là bản cân đối tài sản và
bản sao kê lợi nhuận. Họ rút hoặc loại bỏ cổ phiếu như chơi bài vậy. Đối với
Buffett, các hoạt động của người nắm giữ cổ phiếu thường và người chủ sở
hữu công ty có mối quan hệ thân thiết với nhau. Cả hai đều nên xem xét quyền
sở hữu một doanh nghiệp theo cách giống nhau. Buffett nói: "Tôi là một nhà
đầu tư giỏi hơn bởi vì tôi là một doanh nhân, và tôi là một doanh
nhân giỏi hơn bởi vì tôi là một nhà đầu tư".
PHONG CÁCH ĐẦU TƯ CỦA WARREN BUFFETT
Nguyên lý kinh doanh
1. Doanh nghiệp có mô hình kinh doanh đơn giản và dễ hiểukhông?
2. Doanh nghiệp có một lịch sử hoạt động hợp lýkhông?
3. Doanh nghiệp có triển vọng trong dài hạn không? Nguyên lý quảnlý
4. Quản lý có hợp lý không?
5. Ban quản lý có công bằng với các cổ đôngkhông?
6. Ban quản lý có chống lại được tính cưỡng chế tổ chức không? Nguyên lý tài
chính
7. Lợi nhuận trên vốn cổ phần làgì?
8. Lợi nhuận chủ sở hữu của công ty là gì?
9. Lợi nhuận biên là gì?
10. Công ty có tạo ra được ít nhất một đô la giá trị thị trường cho mỗi đô la
được giữ lại hay không?
Nguyên lý giá trị
11. Giá trị của một công ty là gì?
12. Công ty có được bán với giá chiết khấu đáng kể so với giá trị của nó
không?
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro