7. HƯỚNG DẪN ĐẦU TƯ
Nguyên lý tài chính
Các nguyên lý tài chính mà qua đó Buffett coi trọng cả khả năng quản lý
vượt trội và kết quả kinh tế đều có nền tảng ở một số nguyên tắc điển hình
"kiểu Buffett". Lý do thứ nhất, ông không quá coi trọng kết quả hoạt động một
năm. Thay vào đó, ông tập trung vào kết quả hoạt động trung bình của bốn
đến năm năm. Ông viết, thường thì doanh thu kinh doanh sinh lợi có thể
không xảy ra đồng thời với thời gian hành tinh xoay quanh mặttrời
Ông cũng không kiên nhẫn với những mưu mẹo tài chính cho ra những con số
tổng kết năm đầy ấn tượng nhưng chẳng có mấy phần sự thật. Những nguyên
lý tài chính "còn bền mãi với thời gian":
• Tập trung vào tỉ suất lợi nhuận trên vốn cổ phần, không phải là lợi nhuận
trên một cổ phiếu.
• Tính toán "lợi nhuận chủ sở hữu" để giá trị được phản ánh xác thực.
• Tìm kiếm những công ty với lợi nhuận biêncao.
• Đối với mỗi đô la giữ lại, công ty có tạo ra được ít nhất một đô la giá trị thị
trường không?
Lợi nhuận trên vốn cổ phần
Thông thường, các nhà phân tích đánh giá kết quả hoạt động của công ty
bằng cách xem xét lợi nhuận trên một cổ phiếu. So với năm trước, lợi nhuận
trên một cổ phiếu có tăng không, có đủ cao không? Về phần mình, Buffett coi
lợi nhuận trên cổ phiếu là một bức màn mờ ảo. Do hầu hết các công ty đều giữ
lại một tỉ lệ lợi nhuận của năm trước đó để tăng vốn cổ phần cơ bản, nên ông
không thấy có lý do gì để vui mừng về kết quả lợi nhuận trên cổ phiếu. Không
có gì đáng chú ý khi một công ty tăng lợi nhuận trên cổ phần lên 10% nếu
cùng lúc đó vốn cổ phần cơ bản cũng tăng 10%. Ông giải thích, vậy thì chẳng
có gì khác khi gửi tiền vào tài khoản tiết kiệm và cộng dồn lãi suất rồi rút ra.
Buffett tin tưởng rằng, kiểm tra kết quả kinh tế rõ nhất khi một công ty đạt
được tỉ lệ lợi nhuận trên vốn cổ phần cao, chứ không phải là khi công ty có
mức thu nhập ổn định từ lợi nhuận trên cổ phiếu. Để đánh giá kết quả hoạt
động thường niên của một công ty, Buffett thích dùng mức lợi nhuận trên
vốn cổ phần hơn - đó là tỉ lệ lợi nhuận hoạt động trên cổ phần của cổ đông.
Mặc dù để sử dụng tỉ lệ này, chúng ta cần thực hiện một số điều chỉnh. Trước
hết, tất cả các chứng khoán có thể chào bán nên được định giá theo chi phí,
không phải là theo giá trị thị trường, bởi vì các giá trị trên thị trường chứng
khoán nói chung gây ảnh hưởng lớn tới tỉ suất lợi nhuận trên vốn cổ phần của
cổ đông đối với một công ty nói riêng. Ví dụ như, nếu thị trường chứng khoán
tăng mạnh trong một năm, do vậy làm tăng giá trị ròng của một công ty, thì
kết quả hoạt động thực sự nổi trội sẽ bị giảm bớt đi khi so sánh với mẫu số
lớn hơn. Ngược lại, giảm giá sẽ làm giảm vốn cổ phần của cổ đông, có nghĩa là
kết quả hoạt động tầm thường sẽ được thể hiện tốt hơn nhiều so với thực tế.
Thứ hai, chúng ta phải kiểm soát ảnh hưởng của những nhân tố bất thường có
thể có trong tử số của tỉ lệ này. Buffett loại trừ tất cả phần lãi và lỗ trên vốn,
cũng như bất kỳ nhân tố bất thường nào làm tăng hoặc làm giảm lợi nhuận
hoạt động. Ông đang tìm cách tách biệt kết quả hoạt động thường niên cụ thể
của một công ty. Ông muốn biết ban quản lý đã hoàn thành nhiệm vụ tạo mức
lợi nhuận từ hoạt động của một công ty với nguồn vốn ban đầu tốt như thế
nào. Ông nói, đó là biện pháp đánh giá kết quả kinh tế của ban quản lý tốt
nhất.
Hơn thế nữa, Buffett tin tưởng rằng một công ty nên đạt được lợi nhuận trên
vốn cổ phần tốt trong khi không vay nợ hoặc vay nợ ít. Chúng ta biết rằng
nhiều công ty tăng lợi nhuận trên vốn cổ phần bằng cách tăng tỉ lệ nợ trên vốn
cổ phần. Buffett đã nhận ra điều này, nhưng ý tưởng tăng lợi nhuận trên vốn
cổ phần của Berkshire Hathaway chỉ đơn giản bằng cách tăng thêm nợ không
gây ấn tượng cho ông. Ông nói: "Các quyết định kinh doanh hay đầu tư tốt sẽ
cho những kết quả kinh tế tương đối hài lòng mà không cần sự hỗ trợ từ tài
sản vay nợ". Hơn thế nữa, những công ty có mức vay nợ cao sẽ rất dễ đi tới
phá sản trong thời kỳ suy thoái kinhtế.
Buffett không đưa ra bất kỳ gợi ý nào về mức nợ bao nhiêu là hợp lý hay bất
hợp lý đối với một công ty. Những công ty khác nhau, phụ thuộc vào lưu
lượng tiền mặt của mình, sẽ quản lý những mức nợ khác nhau. Điều Buffett
nói cho chúng ta biết đó là một công ty phát triển tốt sẽ thu được lợi nhuận
trên vốn cổ phần cao mà không cần sự hỗ trợ từ tài sản vay nợ. Các nhà đầu
tư nên cảnh giác trước những công ty tạo lợi nhuận trên vốn cổ phần tốt chỉ
bằng cách vay nợ.
Coca-Cola
Trong "Chiến lược những năm 1980", kế hoạch tái sinh công ty, Goizueta chỉ
ra rằng Coca-Cola sẽ không tham gia vào ngành kinh doanh nào không tạo ra
lợi nhuận trên vốn cổ phần có thể chấp nhận được. Bất kỳ vụ đầu tư mới nào
đều phải có tiềm năng tăng trưởng thực tế đáng kể.
Từ lâu, Coca-Cola quan tâm tới việc cạnh tranh giành cổ phiếu trên một thị
trường trì trệ. Goizueta tuyên bố: "Tăng trưởng lợi nhuận trên cổ phiếu và tác
động tới lợi nhuận trên vốn cổ phần vẫn là một cuộc cạnh tranh". Những lời
nói của ông sau đó đã biến thành hành động. Ngành kinh doanh rượu của
Coca-Cola được chuyển nhượng cho Seagram vào năm 1983.
Mặc dù công ty thu được tỉ lệ lợi nhuận trên vốn cố phần ở mức đáng nể là
20% trong suốt những năm 1970, kết quả đó vẫn không hề gây ấn tượng gì
đối với Goizueta. Ông yêu cầu tỉ lệ lợi nhuận cao hơn. Đến năm 1998, lợi
nhuận trên vốn cổ phần của Coca-Cola đã tăng lên 31,8%. (Xem hình 7.1)
Hình 7.1 Lợi nhuận trên vốn cổ phần của Công ty Coca-Cola và biên trước
thuế
Theo bất kỳ biện pháp đo lường nào, Coca-Cola của Goizueta cũng đều đạt kết
quả tài chính gấp đôi và gấp ba so với kết quả dưới thời vị CEO trước. Những
kết quả được nhìn nhận theo giá trị thị trường của công ty theo thời gian.
Năm 1980, giá trị thị trường của Coca-Cola là 4,1 tỉ đô la. Đến cuối năm
1987, con số này tăng lên 14,1 tỉ đô la (xem hình 7.2). Trong bảy năm, giá trị
thị trường của Coca-Cola tăng với tỉ lệ trung bình hàng năm là 19,3%.
Công ty Washington Post
Khi Buffett mua chứng khoán của Washington Post hồi năm 1973, lợi nhuận
trên vốn cổ phần của công ty là 15,7%. Đây là mức lợi nhuận trung bình đối
với hầu hết các tờ báo và chỉ cao hơn một chút so với chỉ số S&P.
Nhưng trong vòng năm năm, tỉ lệ lợi nhuận trên vốn cổ phần của Washington
Post đã tăng gấp đôi. Lúc đó, tỉ lệ này cao gấp đôi so với chỉ số S&P và cao hơn
50% so với chỉ số trung bình của công ty báo chí. Sau 10 năm tiếp theo, công
ty này đã duy trì được uy thế của mình, tiến tới tỉ lệ lợi nhuận trên vốn cổ
phần đạt mức 36,3% vào năm 1998.
Tỉ lệ lợi nhuận trên vốn cổ phần đạt mức trung bình còn ấn tượng hơn khi
bạn quan sát công ty đã dần dần chủ động giảm thiểu vay nợ. Năm 1973, tỉ lệ
vay nợ dài hạn của công ty trên vốn cổ phần là 37,2%, tỉ lệ cao thứ hai trong
ngành báo chí. Thật đáng kinh ngạc là đến năm 1978, Katherine Graham giảm
70% vay nợ của công ty. Năm 1983, nợ dài hạn trên vốn cổ phần dưới mức
2,7%, bằng 1/10 mức trung bình của công ty báo chí. Nhờ vậy, công ty tạo
được mức lợi nhuận trên vốn cổ phần cao hơn 10% so với những công ty
cùng ngành.
Hình 7.2 Giá trị thị trường của Coca-Cola
"Lợi nhuận chủ sở hữu"
Buffett cảnh báo rằng các nhà đầu tư nên nhận ra việc tính toán lợi nhuận
trên cổ phiếu chỉ là điểm bắt đầu để xác định giá trị kinh tế của một công ty,
chứ không phải là điểm kết thúc. Ông nói: "Điểm đầu tiên cần phải hiểu đó là
không phải tất cả các khoản lợi nhuận đều được tạo ra giống nhau". Ông chỉ ra
rằng những công ty có tỉ lệ tài sản trên lợi nhuận cao có xu hướng báo cáo
khoản lợi nhuận thay thế, nên thường không phản ánh đúng bản chất. Bởi vì
lạm phát khiến những công ty có nhiều tài sản cố định mất một khoản phí,
nên lợi nhuận của những công ty này thường là con số ảo. Vì vậy, tính toán lợi
nhuận chỉ hữu ích cho phân tích nếu chúng xấp xỉ bằng dòng tiền mặt kỳ vọng
của công ty.
Nhưng Buffett cảnh báo, thậm chí dòng tiền mặt cũng không phải là một
công cụ hoàn hảo để xác định giá trị mà nó thường đánh lạc hướng các nhà
đầu tư. Dòng tiền mặt là hợp lý khi đánh giá những công ty có quy mô vốn đầu
tư lớn ban đầu và về sau thì nhỏ hơn, như các công ty bất động sản, gas, và
cáp. Nói cách khác, sẽ không thể đánh giá chính xác những công ty đòi hỏi
nguồn vốn đầu tư lớn như những công ty sản xuất chẳng hạn, khi chỉ xem xét
dòng tiền mặt củachúng.
Dòng tiền mặt của một công ty thông thường được xác định là thu nhập ròng
sau thuế trừ sự sụt giá, giảm giá diện rộng, trả dần, và những chi phí phi tiền
mặt khác. Buffett giải thích rằng vấn đề với định nghĩa chính là nó đã vứt bỏ
một nhân tố kinh tế quan trọng: chi phí vốn. Lợi nhuận hàng năm của công ty
phải trích ra cho trang thiết bị mới, nâng cấp nhà máy, và những cải tổ khác
để duy trì vị thế và khoản này là bao nhiêu? Theo Buffett, xấp xỉ 95% doanh
nghiệp Mỹ đòi hỏi chi phí vốn gần bằng với tỉ lệ khấu hao của họ. Ông nói, bạn
có thể trì hoãn chi phí vốn trong một hoặc hai năm, nhưng trong dài hạn, bạn
sẽ không thể tạo ra được những cải tổ cần thiết và doanh nghiệp của bạn chắc
chắn sẽ suy sụp. Những chi phí vốn này cũng nhiều bằng chi phí lao động và
chi phí tiện ích của một côngty.
Những con số dòng tiền mặt phổ biến hơn trong thời kỳ bùng nổ tình trạng
mua lại suốt những năm 1980 bởi vì giá cao ngất ngưởng trả cho những công
ty được xác định chỉ bằng dòng tiền mặt. Buffett tin rằng những con số dòng
tiền mặt "thường được các chuyên viên marketing sử dụng để thanh minh cho
sự vô lý và vì thế bán được thứ không dễ bán. Khi lợi nhuận có vẻ như không
đủ để bù cho khoản nợ của một trái phiếu hoặc bào chữa cho giá chứng khoán
ngớ ngẩn, thì tập trung vào dòng tiền mặt sẽ trở nên tiện lợi. Buffett cảnh báo
rằng bạn không thể tập trung vào dòng tiền mặt trừ khi bạn sẵn sàng trừ chi
phi vốn cầnthiết.
Thay vì quan tâm tới dòng tiền mặt, Buffett thích sử dụng thứ ông gọi là "lợi
nhuận chủ sở hữu" - là khoản thu nhập ròng của một công ty cộng với khấu
hao, trả dần nợ, ít hơn chi phí vốn và bất kỳ nguồn vốn lưu động thêm vào nào
cần thiết. Buffett thừa nhận, đó không phải là một biện pháp chính xác về mặt
toán học vì một lý do đơn giản là tính toán chi phí vốn tương lai thường đòi
hỏi sự ước lượng gần đúng. Vẫn vậy, trích lời của Keynes - ông nói: "Tôi thích
gần đúng hơn là hoàn toàn sai".
Coca-Cola
Năm 1973, "lợi nhuận chủ sở hữu" (thu nhập ròng cộng với khấu hao rồi trừ
đi chi phí vốn) là 152 triệu đô la. Tới năm 1980, lợi nhuận chủ sở hữu là 262
triệu đô la, bằng 8% tỉ lệ tăng trưởng cộng gộp hàng năm. Sau đó, từ năm
1981 tới năm 1988, lợi nhuận chủ sở hữu tăng từ 262 triệu đô la lên 828 triệu
đô la, bằng 17,8% tỉ lệ tăng trưởng cộng gộp thường niên trung bình (xem
hình 7.3).
Tỉ lệ tăng trưởng lợi nhuận sở hữu phản ánh trong giá cổ phiếu của Coca-
Cola. Trong giai đoạn 10 năm từ năm 1973 tới năm 1982, tổng lợi nhuận của
Coca-Cola tăng ở tỉ lệ trung bình thường niên là 6,3%. 10 năm sau, từ năm
1983 tới năm 1992, tổng lợi nhuận tăng trưởng đạt tỉ lệ trung bình hàng năm
là 31,1%.
Lợi nhuận biên
Giống như Philip Fisher, Buffett nhận thức được rằng những doanh nghiệp
lớn sẽ có những vụ đầu tư tồi tệ nếu ban quản lý không thể biến doanh thu
thành lợi nhuận. Theo kinh nghiệm của ông, những nhà quản lý của hệ thống
hoạt động chi phí cao có xu hướng tìm những cách để liên tục tăng tổng chi
phí, trong khi các nhà quản lý của hệ thống hoạt động chi phí thấp luôn luôn
tìm cách cắt giảm chiphí.
Buffett không mấy kiên nhẫn với những nhà quản lý để chi phí leo thang.
Thường thì những nhà quản lý giống nhau này sẽ khởi xướng một chương
trình cải tổ làm cắt giảm chi phí cho phù hợp với doanh thu. Mỗi lần công ty
thông báo một chương trình cắt giảm chi phí, ông biết rằng công ty này không
tìm ra trước các cổ đông các khoản chi. Buffett nói: "Nhà quản lý thực sự tốt
sẽ không thức giấc vào buổi sáng và nói, 'đây là ngày tôi cắt giảm chi phí', mà
anh ta thức giấc và quyết định luyện tập hít thở".
Buffett hiểu quy mô nhân viên như thế nào là phù hợp cho doanh nghiệp và
tin rằng với mỗi đô la doanh thu sẽ có một mức chi phí hợp lý. Ông đã lựa
chọn Carl Reichard và Paul Hazen tại Wells Fargo để tấn công nghiêm khắc
vào những chi phí không cần thiết. Ông nói: "Họ ghê tởm việc tiêu tốn phần
chi phí nhiều hơn cần thiết, và tấn công chi phí ác liệt khi lợi nhuận ở mức kỷ
lục cũng như khi dưới mức đặt ra".
Hình 7.3 Thu nhập ròng của Coca-Cola và "lợi nhuận chủ sở hữu"
Bản thân Buffett không nhượng bộ khi bàn tới vấn đề chi phí và phí tổn không
cần thiết, và ông cũng nhạy cảm với vấn đề lợi nhuận biên của Berkshire. Tất
nhiên, Berkshire Hathaway là một công ty nổi trội. Berkshire Hathaway
không có phòng luật pháp, phòng quan hệ đầu tư và công chúng, cũng không
có phòng kế hoạch chiến lược được bố trí những nhân viên được đào tạo
MBA chuyên thảo ra chiến lược mua lại và sáp nhập. Tổng chi phí hoạt động
sau thuế của công ty thấp hơn 1% lợi nhuận hoạt động. Buffett nói, nếu so
sánh con số này với những công ty khác, có cùng mức lợi nhuận nhưng 10%
chi phí thì các cổ đông mất 9% giá trị cổ phần của họ chỉ đơn giản là do tổng
chi phí.
Công ty Pampered Chef
Như đã đề cập, Doris Christopher sáng lập ra công ty này chỉ với 3 nghìn đô la
đi vay từ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ của gia đình bà và bà không bao giờ
có thêm một khoản nợ nào khác nữa. Ngày nay, công ty đạt mức doanh thu
trên 700 triệu đô la.
Khách hàng thanh toán cho sản phẩm trước khi giao hàng nên công ty luôn là
một công ty có lượng tiền mặt dương. Alan Luce, Chủ tịch Công ty Luce &
Associations tại Orlando, Florida, một công ty tư vấn bán trực tiếp, đã ước
tính lợi nhuận biên trước thuế đạt mức trên 25%.
Công ty Coca-Cola
Năm 1980, lợi nhuận biên trước thuế của Coca-Cola ở mức thấp 12,9%. Mức
này giảm trong năm năm liền và thấp hơn đáng kể mức biên năm 1973 của
công ty là 18%. Trong năm đầu tiên của Goizueta, lợi nhuận biên trước thuế
tăng lên 13,7% và đến năm 1998, khi Buffett mua cổ phiếu của Coca- Cola, lợi
nhuận biên tăng tới mức kỷ lục19%.
Công ty Washington Post
Sáu tháng sau khi Washington Post phát hành cổ phiếu lần đầu hồi năm
1971, Katherine Graham đã có cuộc gặp gỡ với các nhà phân tích chứng
khoán Phố Wall. Bà nói với họ rằng đầu tiên là phải tối đa hoá lợi nhuận từ hệ
thống hoạt động hiện tại của công ty. Lợi nhuận tiếp tục tăng tại các trạm thu
phát truyền hình và tờ Newsweek, nhưng khả năng lợi nhuận của tờ báo
đang có xu hướng thu hẹp lại. Bà nói, nguyên nhân căn bản là do chi phí sản
xuất cao, ví dụ như tiềnlương.
Sau khi mua tờ Times Herald, lợi nhuận của Washington Post tăng vọt. Mỗi
lần công đoàn bãi công tờ báo (năm 1949, 1958, 1966, 1968, 1969), ban quản
lý đều lựa chọn cách đáp ứng nhu cầu của họ, thay vì mạo hiểm ngừng hoạt
động tạm thời. Suốt thời gian này, Washington Post vẫn là một trong ba tờ
báo nổi tiếng nhất. Suốt những năm 1950 và 1960, chi phí nhân công tăng đã
làm giảm lợi nhuận. Bà Graham nói với các nhà phân tích rằng, vấn đề này sẽ
được giải quyết.
Trong những năm 1970, khi hợp đồng lao động bắt đầu hết hiệu lực, thì
Graham lên danh sách những nhà đàm phán lao động kiên định với công
đoàn. Năm 1974, công ty đánh bại một vụ bãi công của nhân viên tờ báo
Guild và sau cuộc thương lượng kéo dài, công ty in đã chấp nhận ký kết một
hợp đồng mới.
Thời gian đầu những năm 1970, Forbes viết: "Điều tốt đẹp nhất có thể nói về
kết quả hoạt động của Washington Post đó là nó xếp hạng C danh dự về khả
năng lợi nhuận". Lợi nhuận biên trước thuế năm 1973 là 10,8%, thấp hơn hẳn
lợi nhuận biên 15% trong lịch sử của công ty những năm 1960. Sau vụ
thương lượng hợp đồng thành công, vận mệnh của công ty được cải thiện
đáng kể. Tới năm 1978, lợi nhuận biên đạt mức 19,3%, tăng 80% trong vòng
năm năm.
Lời dự đoán của Buffett đã trở thành sự thực. Tới năm 1988, lợi nhuận trước
thuế của Washington Post đạt mức 31,8%, so với mức trung bình của ngành
báo chí là 16,9% và chỉ số S&P là 8,6%. Mặc dù, trong những năm gần đây,
lợi nhuận biên của công ty giảm đôi chút nhưng vẫn duy trì ở mức cao hơn
đáng kể so với tỉ lệ trung bình của ngành.
Giả thuyết 1 đô la
Mục tiêu của Buffett là lựa chọn những công ty mà mỗi đô la của lợi nhuận giữ
lại được chuyển thành ít nhất một đô la giá trị thị trường. Đây là bài kiểm tra
để nhanh chóng xác định được những công ty có nhà quản lý có
thể đầu tư vốn của công ty tối ưu. Nếu lợi nhuận giữ lại được đầu tư vào nội
bộ công ty và tạo ra lợi nhuận trên mức trung bình, thì bằng chứng sẽ là sự gia
tăng tương ứng giá trị thị trường của công ty.
Vào thời điểm nhất định, điều đó đã diễn ra. Mặc dù thị trường chứng khoán
theo dõi giá trị của công ty trong một thời gian dài, trong một năm nào đó, giá
cả sẽ xoay chuyển vì những lý do khác ngoài giá trị. Buffett giải thích điều
tương tự cũng xảy ra đối với phần lợi nhuận được giữ lại. Nếu một công ty sử
dụng lợi nhuận giữ lại không hiệu quả trong một thời gian dài, thì cuối cùng,
thị trường sẽ định giá cổ phiếu của công ty đó một cách đáng thất vọng.
Ngược lại, nếu công ty dành được lợi nhuận trên nguồn vốn tăng thêm trên
trung bình, thì giá chứng khoán tăng sẽ cho thấy sự thành công.
Buffett tin rằng nếu ông lựa chọn một công ty có triển vọng kinh tế trong dài
hạn tương đối khả quan do những nhà quản lý có khả năng và luôn hướng về
cổ đông, thì minh chứng sẽ phản ánh trong giá trị thị trường tăng của công ty.
Ông sử dụng một bài kiểm tra nhanh: Giá trị thị trường của một công ty tăng
nên ít nhất phù hợp với số lợi nhuận được giữ lại. Nếu giá trị tăng cao hơn lợi
nhuận được giữ lại thì tình hình thậm chí còn tốt hơn rất nhiều. Tóm lại,
Buffett giải thích rằng: "Nhiệm vụ của bạn là phải lựa chọn một doanh nghiệp
có những đặc điểm cho phép một đô la lợi nhuận giữ lại được chuyển thành ít
nhất một đô la giá trị thị trường".
Công ty Coca-Cola
Kể từ năm 1988, khi Buffett bắt đầu mua chứng khoán, tình trạng giá của
Coca-Cola quả là phi thường. Từ 10 đô la một cổ phiếu, giá chứng khoán đã
tăng lên 45 đô la vào năm 1992. Trong suốt thời gian này, Coca-Cola đã đánh
bại hoàn toàn chỉ số S&P 500.
Giữa những năm 1989 và 1999, giá thị trường của Coca-Cola tăng từ 25,8 tỉ
đô la lên 143,9 tỉ đô la. Đặt tỉ lệ tăng trưởng này vào một hoàn cảnh khác, hãy
xem xét điều này: Một vụ đầu tư 100 đô la vào cổ phiếu thường vào ngày 31
tháng 12 năm 1989, với cổ tức tái đầu tư, thì 10 năm sau mức tăng trưởng
theo giá trị trước thuế lên tới 681 đô la, đạt mức lợi nhuận gộp trung bình
hàng năm là 21%. Trong cùng giai đoạn 10 năm này, công ty tạo ra 26,9 tỉ đô
la lợi nhuận, thanh toán 10,5 tỉ đô la cổ tức cho cổ đông, và giữ
lại 16,4 tỉ đô la để tái đầu tư. Mỗi đô la công ty giữ lại đã tạo ra 7,2 đô la
theo giá trị thị trường.
Năm 2003, vụ đầu tư trị giá 1.023 tỉ đô la ban đầu của Berkshire vào Coca-
Cola đáng giá hơn 10 tỉ đô la.
Công ty Gillette
Từ năm 1998, khi Buffett lần đầu tiên tham gia vào công ty, tới năm 1992, giá
trị thị trường của Gillette tăng lên 9,3 tỉ đô la. Trong suốt thời gian này, công
ty thu được 1,6 tỉ đô la, phân phối 582 triệu đô la cho các cổ đông, và giữ lại
1,011 tỉ đô la để tái đầu tư. Với mỗi đô la giữ lại, giá trị thị trường của công ty
tăng lên 9,21 đô la.
***
Nghiên cứu sâu cơ cấu tài chính của một công ty không phải là nhiệm vụ giản
đơn, và đối với bất kỳ ai không phải là Warren Buffett, nghiên cứu tất cả
những số liệu này khi công ty là công ty tư nhân rõ ràng là điều không thể.
Tuy vậy, như Buffett nói với chúng ta, nỗ lực luôn luôn đem lại kết quả, bởi vì
nó gợi mở nguồn thông tin quan trọng.
Như chúng ta biết, các vụ scandal kế toán nối tiếp nhau ngày càng trở nên
quan trọng đối với những nhà đầu tư muốn nghiên cứu sâu lĩnh vực tài chính.
Không có gì đảm bảo rằng bằng nỗ lực này bạn sẽ khám phá được đầy đủ sự
thật, nhưng bạn sẽ có nhiều cơ hội phát hiện ra những con số giả mạo hơn là
bạn không làm gì cả. Như Buffett nhận xét: "Các nhà quản lý luôn luôn mong
muốn thu được những con số, thì ở một điểm nào đó sẽ tạo ra những con số".
Mục tiêu của bạn là bắt đầu học cách tìm ra sự chênh lệch.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro