Phần 9

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

9. ĐẦU TƯ VÀO NHỮNG CHỨNG KHOÁN

THU NHẬP CỐ ĐỊNH

Warren Buffett nổi tiếng trong thế giới đầu tư có lẽ bởi ông đã quyết định đầu

tư vào cổ phiếu thường, và bởi ông là thành viên Hội đồng Quản trị của những

công ty lớn như Coca–Cola, American Express, Washington Post và Gillette.

Tuy nhiên, hoạt động đầu tư của ông không chỉ giới hạn ở cổ phiếu. Ông còn

mua các loại chứng khoán thu nhập cố định ngắn hạn và dài hạn. Danh mục

đầu tư của ông gồm có tiền tệ, trái phiếu, và cổ phiếu ưu đãi. Warren Buffett

thường xuyên đầu tư vào loại cổ phiếu này mỗi khi có cơ hội. Mục đích của

ông luôn là tìm kiếm những khoản đầu tư đem lại lợi nhuận sau thuế cao

nhất. Trong những năm gần đây, đầu tư vào chứng khoán thu nhập ổn định là

đầu tư vào thị trường nợ, trong đó có trái phiếu chính phủ, trái phiếu doanh

nghiệp, cổ phiếu chuyển đổi, cổ phiếu ưu đãi chuyển đổi, và thậm chí cả những

junk bond có khả năng lợi nhuậncao.

Khi xem xét những vụ đầu tư trên, chúng ta sẽ thấy có gì đó quen thuộc, bởi lẽ

Buffett đầu tư theo đúng phương pháp đầu tư cổ phiếu. Ông tìm kiếm biên độ

an toàn, cam kết đầu tư chắc chắn, và mức giá thấp. Ông yêu cầu phải có sự

quản lý mạnh mẽ và trung thực, hiệu quả trong việc sử dụng vốn, và tiềm

năng lợi nhuận. Các quyết định của ông không phụ thuộc vào xu hướng hay

những nhân tố tức thời của thị trường, mà dựa vào những cơ hội cụ thể khiến

Buffett tin tưởng rằng có một số tài sản hay chứng khoán bị đánh giá thấp so

với giá trị thực của chúng.

Đặc điểm này trong phong cách đầu tư của Buffett không được các tờ báo tài

chính chú ý nhiều, nhưng lại có vai trò quan trọng trong danh mục đầu tư

Berkshire. Năm 1922, chứng khoán thu nhập ổn định chiếm 20% danh mục

đầu tư của Berkshire, còn hiện nay, tức 14 năm sau đó, con số này tăng lên

đến 30%.

Lí do tại sao những khoản đầu tư có thu nhập ổn định tăng thật đơn giản. Đó

là bởi vì chúng luôn đem lại những giá trị tốt nhất. Chính nhờ sự phát triển

chắc chắn của danh mục đầu tư Berkshire Hathaway và sự thay đổi môi

trường kinh doanh, trong đó có sự thiếu vắng những cổ phiếu được bán công

khai mà ông thấy hấp dẫn, nên Buffett chuyển sang mua toàn bộ công ty hoặc

mua những chứng khoán có thu nhập ổn định. Trong thư gửi cổ đông năm

2003, ông viết: "Thật khó có thể tìm được những cổ phiếu bị đánh giá quá

thấp. Đây là một khó khăn càng lúc càng nghiêm trọng do sự phát triển chóng

mặt của các quỹ".

Cũng trong bức thư đó, Buffett giải thích, Berkshire sẽ tiếp tục thực hiện

những phương pháp phân bổ vốn như trước đây: "Nếu cổ phiếu rẻ hơn giá

trị của cả doanh nghiệp, chúng ta cần mua ồ ạt cổ phiếu đó. Nếu trái phiếu lựa

chọn trở nên hấp dẫn như trong năm 2002, chúng ta nên đầu tư vào chúng.

Dù trong bất kỳ điều kiện thị trường hay kinh tế nào, chúng ta vẫn có lợi khi

mua những doanh nghiệp đáp ứng được các tiêu chuẩn của chúng ta. Với

những doanh nghiệp đáp ứng đủ tiêu chuẩn, doanh nghiệp càng lớn đồng

nghĩa với việc lợi nhuận nó mang lại càng cao. Hiện nay, chúng ta đang sử

dụng không hợp lý nguồn vốn của mình. Đây là một thực tế thật đáng buồn

nhưng còn đáng buồn hơn nếu chúng ta làm những việc ngốc nghếch. (Đây là

kinh nghiệm của chính tôi)".

Ở một mức độ nào đó, trong danh mục đầu tư của Berkshire Hathaway luôn

cần có chứng khoán thu nhập cố định vì lĩnh vực hoạt động của họ tập trung

vào những công ty bảo hiểm. Để thực hiện nghĩa vụ với khách hàng, các công

ty bảo hiểm phải đầu tư một phần tài sản vào những chứng khoán đem lại thu

nhập cố định. Tuy nhiên, tỷ lệ phần trăm chứng khoán thu nhập cố định trong

danh mục đầu tư của Berkshire vẫn thấp hơn nhiều so với những công ty bảo

hiểm khác.

Nói chung, Buffett có xu hướng tránh đầu tư vào loại chứng khoán này (trừ

những khoản đầu tư cần thiết trong danh mục bảo hiểm) khi ông cảm thấy

xuất hiện nguy cơ lạm phát, hiện tượng có thể làm giảm sức mua trong

tương lai, từ đó dẫn đến sự suy giảm giá trị trái phiếu. Mặc dù cuối những

năm 1970, tỷ lệ lãi suất xấp xỉ bằng lợi nhuận thu được của gần như toàn bộ

các thương vụ, nhưng Buffett vẫn không phải là người thuần túy mua trái

phiếu dài hạn. Ông luôn cho rằng khả năng xảy ra lạm phát là rất cao. Trong

một môi trường như vậy, giá trị của cổ phiếu thường sẽ suy giảm thực sự, còn

giá trị của trái phiếu rõ ràng sẽ sụt hơn nhiều. Trong môi trường lạm phát phi

mã, một công ty bảo hiểm đầu tư nhiều vào trái phiếu rất có thể sẽ trắng tay.

Có thể cùng lúc nhắc đến Buffett và trái phiếu là điều chưa bao giờ bạn nghĩ

tới, nhưng sẽ chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi chúng ta biết rằng ông đã áp

dụng cùng một quy tắc khi định giá một công ty hay một cổ phiếu. Buffett là

một nhà đầu tư nguyên tắc. Ông chỉ đầu tư tiền của mình khi nhìn thấy tiềm

năng lợi nhuận. Khi đầu tư, ông đảm bảo định giá rủi ro cho các khoản đầu tư

đó. Thậm chí ngay trong những giao dịch đem lại thu nhập ổn định, ông vẫn

quan tâm nhiều tới việc điều hành, giá trị và hoạt động của công ty. Tuy không

được nhiều người biết đến, phương thức đầu tư vào trái phiếu có thu nhập ổn

định theo kiểu "trái phiếu như một doanh nghiệp" đã hỗ trợ Buffett rất nhiều.

Trái phiếu

Trung tâm cung cấp năng lượng công cộng Washington (WPPSS: Washington

Public Power Supply System)

Năm 1983, Buffett quyết định đầu tư vào trái phiếu của Trung tâm cung cấp

năng lượng công cộng Washington (WPPSS). Thương vụ này là một ví dụ rất

rõ ràng thể hiện suy nghĩ của Buffett về những khoản lợi nhuận do đầu tư vào

trái phiếu đem lại so với những khoản lợi nhuận thu được khi mua toàn bộ

doanh nghiệp.

Ngày 25 tháng Bảy năm 1983, WPPSS (thường được gọi hài hước là Whoops)

công bố tình trạng nợ 2,25 tỉ đô la trái phiếu địa phương nằm trong chương

trình tài trợ cho công trình dở dang là hai lò phản ứng hạt nhân số 4 và số 5.

Chính quyền bang cho rằng họ không có trách nhiệm phải trả tiền cho nguồn

năng lượng mà trước đây họ hứa sẽ mua, nhưng cuối cùng lại không cần tới.

Quyết định đó dẫn tới tình trạng nợ trái phiếu địa phương lớn nhất trong lịch

sử nước Mỹ. Số tiền nợ lớn và thất bại hoàn toàn của WPPSS sau đó khiến

thị trường thất vọng với những trái phiếu

ngành năng lượng trong vài năm liền. Các nhà đầu tư bán tống bán tháo trái

phiếu năng lượng. Điều này khiến giá trái phiếu giảm xuống và tỷ lệ lãi suất

hiện tại ghi trên trái phiếu cao hơn.

Đám mây bao phủ Dự án số 4 và 5 của WPPSS đã lan ra cả các Dự án số 1, 2 và

3. Nhưng Buffett hiểu rõ sự khác nhau giữa hai nhóm dự án này. Ba dự án đầu

là những dự án năng lượng vận hành và thuộc quyền quản lý trực tiếp của Cơ

quan quản lý năng lượng chính phủ Bonneville. Tuy nhiên, vấn đề của dự án

số 4 và 5 nghiêm trọng đến mức một số người dự đoán rằng những vấn đề ấy

có thể làm suy giảm uy tín của Cơ quan năng lượng Bonneville.

Khi sở hữu các trái phiếu địa phương của WPPSS trong dự án 1, 2 và 3, Buffett

đã đánh giá những rủi ro của chúng. Chắc chắn có nhiều khả năng những trái

phiếu này sẽ rơi vào tình trạng không trả được nợ và rủi ro khi trả lãi có thể

sẽ diễn ra trong một thời gian dài. Tuy nhiên, một dấu hiệu khác, có ý nghĩa

trái ngược hoàn toàn cho thấy những trái phiếu này thực sự có giá trị. Theo

đó, thậm chí Buffett còn không thể mua những trái phiếu này được chiết khấu

tới mức giá chuẩn (mệnh giá). Khi mức giá lên cao nhất trong khoảng thời

gian đó, những trái phiếu này cũng chỉ đáng giá 100 xu trên 1 đô la.

Ngay sau khi Dự án số 4, và số 5 rơi vào tình trạng không trả được nợ,

Standard and Poor's ngừng đánh giá các Dự án số 1, 2, và 3. Giá thấp nhất

ghi trên trái phiếu của ba dự án đầu giảm xuống chỉ còn 40 xu trên 1 đô la, và

mang lại một khoản lợi nhuận là 15 – 17 % không đánh thuế. Giá cao nhất của

trái phiếu giảm xuống còn 80 xu trên 1 đô la. Mức giá này có sinh lợi. Với thái

độ bình tĩnh, từ tháng 10 năm 1983 đến tháng 6 năm 1984, Buffett mua hàng

loạt trái phiếu của Dự án số 1, 2, và 3. Cuối tháng Sáu năm 1984, Berkshire

Hathaway sở hữu 139 triệu đô la trái phiếu của ba dự án này (bao gồm cả trái

phiếu giá cao và trái phiếu giá thấp) với tổng mệnh giá lên tới 205 triệu đô la.

Berkshire đã đầu tư 139 triệu đô la vào trái phiếu WPPSS và hy vọng mỗi năm

sẽ thu được 22,7 triệu đô la lợi nhuận sau thuế (giá trị tích luỹ hàng năm ghi

trên trái phiếu WPPSS) bằng tiền mặt. Theo Buffett, vào thời gian đó, rất ít

doanh nghiệp sẵn sàng mua vào với mức giá thấp hơn giá trị sổ sách và thu

được 16,3% lợi nhuận trên vốn sau thuế. Buffett cho biết, nếu mua một công

ty đang hoạt động, có thể thu được lợi nhuận sau thuế là 22,7

triệu đô la (45 triệu đô la trước thuế), thì Berkshire phải bỏ ra khoảng 250 tới

300 triệu đô la. Giả sử tìm được một công ty như vậy, Buffett vẫn sẽ vui vẻ trả

số tiền lớn kia. Nhưng, như ông đánh giá, chỉ cần đầu tư một nửa số tiền trên

cho trái phiếu của WPPSS, Berkshire vẫn thu được khoản lợi nhuận tương

tự. Tuyệt vời hơn thế, Berkshire mua trái phiếu đó với mức giá chiết khấu

32% so với giá trị sổsách.

Khi xem xét lại, Buffett thừa nhận, việc mua trái phiếu WPPSS hoá ra thành

công hơn ông mong đợi. Trên thực tế, trong số những thành tựu kinh tế của

năm 1983, trái phiếu này mang lại lợi nhuận cao nhất. Trước đây, Buffett

mua trái phiếu WPPSS với giá thấp hơn nhiều so với mệnh giá. Còn lúc đó, giá

của chúng tăng gấp đôi và đem lại khoản lợi nhuận 15% đến 17% trái phiếu

không tính thuế. Buffett nói: "Mặc dù rất hài lòng trước những gì trái phiếu

WPPSS mang lại, nhưng chúng tôi không thay đổi suy nghĩ tiêu cực về trái

phiếu dài hạn. Làm thế chỉ khiến chúng tôi nuôi hy vọng đầu tư vào những

chứng khoán bị người ta bêu xấu, bị thị trường đánh giá thấp".

RJR Nabisco

Cuối những năm 1980, trên thị trường tài chính xuất hiện một công cụ đầu tư

mới, thường được gọi là trái phiếu có tỷ suất lợi nhuận cao nhưng hiện nay,

hầu hết nhà đầu tư đều gọi chúng là "trái phiếu rác" (trái phiếu có giá trị

thấp, được xếp hạng BB).

Theo Buffett, những trái phiếu có tỷ suất lợi nhuận cao khác hẳn so với loại

trái phiếu trước đó được Buffett gọi là "những thiên thần gục ngã". Đây là

thuật ngữ Buffett dùng để chỉ những trái phiếu sụt giảm giá trị vào thời điểm

khó khăn, và bị các cơ quan chức năng đánh tụt hạng hệ số đáng tin cậy. Trái

phiếu của WPPSS chính là "những thiên thần gục ngã". Ông cho rằng những

trái phiếu có tỷ suất lợi nhuận cao này chỉ là một dạng pha tạp của "những

thiên thần gục ngã". Trước khi được phát hành, chúng đã là trái phiếu rác.

Những tay môi giới trên sàn giao dịch phố Wall có khả năng tăng cường tính

hợp pháp cho việc đầu tư vào trái phiếu rác bằng cách đưa ra kết quả nghiên

cứu cho thấy tỷ suất lợi nhuận cao hơn có thể bù đắp rủi ro của tình trạng vỡ

nợ. Buffett phản đối và cho rằng, những con số thống kê đưa ra trước đó là vô

nghĩa bởi vì chúng được tiến hành trên một nhóm các trái phiếu hoàn toàn

khác với những trái phiếu rác hiện hành. Theo ông, thật

phi lý khi cho rằng trái phiếu rác giống hệt như "những thiên thần gụcngã".

Đầu những năm 1980, trái phiếu rác càng trở nên kém giá trị hơn khi một

trào lưu mới ồ ạt thâm nhập vào thị trường. Buffett ghi lại: "Hàng núi trái

phiếu rác bị những người không quan tâm bán cho những kẻ không suy nghĩ.

Và trên thị trường chẳng thiếu những kẻ mua và bán như vậy". Vào thời kỳ

đỉnh điểm của giai đoạn nợ điên cuồng đó, Buffett dự đoán rằng một số doanh

nghiệp tài chính chắc chắn sẽ sụp đổ khi các công ty có số nợ leo thang đang

làm mọi cách để trả lãi. Năm 1989, hai tập đoàn Southmark và Integrated

Resources đều rơi vào tình trạng không trả được nợ trái phiếu. Thậm chí tập

đoàn Campeau, một tập đoàn bán lẻ có quyền phát hành trái phiếu rác, cũng

tuyên bố, tập đoàn đang gặp khó khăn trong việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ.

Sau đó, ngày 13 tháng 10 năm 1989, tập đoàn UAL, với mục tiêu quản lý số

tiền 6,8 triệu đô la đầu tư vào trái phiếu có lợi tức cao, cũng cho biết họ không

thể tiếp tục đầu tư thêm. Những nhà mua bán chứng khoán song hành đã bán

cổ phiếu thường của họ, và chỉ trong một ngày, chỉ số công nghiệp trung bình

Dow Jones giảm tới 190 điểm.

Sự thất vọng khi đầu tư vào UAL, cộng với thua lỗ khi đầu tư vào Southmark

và Integrated Resources khiến nhiều nhà đầu tư đặt dấu hỏi trước giá trị của

những trái phiếu có tỷ suất lợi nhuận cao. Các nhà quản lý danh mục đầu tư

bắt đầu loại bỏ loại trái phiếu này ra khỏi danh mục đầu tư của mình. Không

có người mua, giá trái phiếu suy giảm nhanh chóng. Sau khi khởi đầu một

năm với những khoản lợi nhuận đáng kể, thì sau đó, chỉ số trái phiếu có tỷ

suất lợi nhuận cao của Merrill Lynch quay trở về con số khiêm tốn 4,2% khi

so sánh với lợi nhuận 14,2 % của những trái phiếu được xếp hạng đầu tư.

Cuối năm 1989, trái phiếu rác gần như bị loại khỏi thị trường.

Năm 1988, tập đoàn Kohlberg Kravis & Roberts mua thành công RJR Nabisco

với giá 25 triệu đô la bằng nợ ngân hàng và trái phiếu rác. Mặc dù RJR Nabisco

đã hoàn thành nghĩa vụ tài chính của mình, nhưng khi thị trường trái phiếu

rác suy giảm, thì giá trái phiếu RJR cũng suy giảm theo những loại trái phiếu

rác khác. Năm 1989 và 1990, khi thị trường trái phiếu đi xuống, Buffett bắt

đầu mua trái phiếu củaRJR.

Vào thời gian đó, đa số các trái phiếu rác đều có vẻ kém hấp dẫn, nhưng

Buffett nhận ra rằng RJR Nabisco đã bị trừng phạt không công bằng. Những

sản phẩm ổn định của công ty có khả năng lợi nhuận đủ để chi trả các khoản

nợ. Thêm vào đó, RJR Nabisco đã bán thành công một phần doanh nghiệp

với giá rất hấp dẫn, nhờ vậy tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu của họ đã giảm.

Buffett phân tích rủi ro khi đầu tư vào RJR và cuối cùng kết luận rằng mức độ

tin cậy của công ty cao hơn mức những nhà đầu tư bán hết số trái phiếu của

công ty dự đoán. Trái phiếu RJR có mức lãi suất là 14,4% (một mức lãi suất

đáng chú ý), và mức giá bị đẩy xuống hứa hẹn tiềm năng lợi nhuận.

Chính vì vậy, giữa năm 1989 và 1990, Buffett đã mua 440 triệu đô la trái

phiếu RJR ở mức giá thấp. Mùa xuân năm 1991, RJR Nabisco cho biết họ đã

thu hồi được hầu hết trái phiếu rác khi mua lại chúng theo mệnh giá. Trái

phiếu RJR tăng 34%, đem lại lợi nhuận là 150 triệu đô la cho Berkshire

Hathaway.

Level 3 Communications

Năm 2002, Buffett mua hàng loạt trái phiếu có tỷ suất lợi nhuận cao khác,

tăng mức nắm giữ loại chứng khoán này lên 8,3 tỉ đô la, gấp sáu lần. Trong đó

có 65% là chứng khoán ngành năng lượng và khoảng 7 tỉ đô la được mua qua

các công ty bảo hiểm Berkshire.

Trong thư gửi cổ đông năm 2002, Buffett viết: "Ban quản lý của Berkshire

chúng tôi không cho rằng rủi ro tín dụng cùng với những chủ thể phát hành

những công cụ này giảm xuống tương ứng với nhau". Quan điểm này xuất

phát từ một người không bao giờ lao vào những rủi ro không được tính toán,

hay không được định giá. Với quan điểm này, ông còn viết: "Charlie và tôi ghét

cay ghét đắng việc chấp nhận rủi ro, đặc biệt là những rủi ro không được đền

bù xứng đáng. Theo cách này, chúng tôi thường xuyên thu được kết quả tốt

đẹp khi đến ngày đáo hạn của trái phiếu".

Ngoài việc định giá rủi ro, ông còn mua những chứng khoán có giá thấp hơn

giá trị thực, thậm chí là ở mức giá thấp hơn rất nhiều, và chờ đợi cho đến khi

thu được giá trị tài sản của chứng khoán đó.

Điều đặc biệt hấp dẫn ở những vụ mua trái phiếu là ở chỗ, rất có khả năng

Buffett sẽ không mua cổ phần ở phần lớn những công ty này. Tuy nhiên, cuối

năm 2003, những khoản đầu tư có tỷ suất lợi nhuận cao của Buffett tăng lên

1,3 triệu đô la, trong khi tổng thu nhập ròng của công ty trong năm đó là 8,3

triệu đô la. Khi thị trường của loại chứng khoán này tăng mạnh, một số loại

cổ phiếu được rao bán. Lời bình luận của Buffett lúc đó chỉ đơn giản là: "Hôm

qua chúng là cỏ dại, còn hôm nay lại là những bông hoa".

Tháng Bảy năm 2002, có ba công ty đã đầu tư tổng cộng 500 triệu đô la vào

loại trái phiếu có thể chuyển đổi trong 10 năm ở Broomfield, Colorado – nơi

đặt trụ sở của Level 3 Communications, theo cách phân loại của Colorado.

Trái phiếu này có tỉ lệ lãi suất ghi trên trái phiếu là 9% và giá chuyển đổi là

3,41 đô la, nhằm giúp công ty này đạt mục tiêu và tăng vốn cho công ty. Ba

công ty này là Berkshire Hathaway (100 triệu đô la), Legg Mason (100 triệu

đô la) và Longleaf Partners (300 triệu đô la).

Những công ty công nghệ cao bình thường không nằm trong mục tiêu của

Buffet. Ông cũng thẳng thắn thừa nhận rằng ông không biết làm cách nào để

xác định chính xác giá trị của những công ty công nghệ. Với Level 3, đây là

một vụ mua bán đắt đỏ, nhưng nó đem lại tiền mặt và khoản tín dụng khi họ

cần đến tiền. Về phần mình, Buffett đầu tư có lãi (9%) trên số vốn của mình.

Lúc đó, Buffett khuyên các nhà đầu tư nên dự đoán tỉ lệ lãi suất là 7% tới 8%

từ thị trường chứng khoán hàng năm, và như vậy, với mức 9%, ông là người

dẫn đầu cuộc chơi.

Câu chuyện này còn thể hiện một đặc điểm đầu tư đặc trưng của Buffett, đó là

sự tham gia quản lý và mối quan hệ cá nhân. Level 3 Communications là một

công ty con thuộc một tập đoàn xây dựng ở Omaha có tên là Peter Kiewit

Sons. Một người bạn của Buffett là Walter Scott Jr., là Chủ tịch danh dự của

Kiewit và cũng là Chủ tịch của Level 3. Scott thường được mọi người gọi là cư

dân đầu tiên của Omaha. Chính ông là động lực đứng đằng sau vườn thú, bảo

tàng nghệ thuật, viện khoa học thành phố, khu vui chơi Nebraska và khu công

viên. Buffett và Scott có mối quan hệ cá nhân cũng như công việc thân thiết:

Scott có chân trong ban quản lý của Berkshire, và văn phòng của hai ông chỉ

cách nhau hai tầng cùng thuộc toà nhà Trung tâm thương mại Kiewit.

Mặc dù hiểu rất rõ và luôn kính trọng Scott, nhưng Buffett muốn vụ đầu tư

của mình phải minh bạch và công bằng. Không có gì đáng ngạc nhiên khi mối

quan hệ của hai người có thể sẽ khiến vụ mua bán không thoả đáng. Vì vậy,

Buffett đã đề nghị ông O.Mason Hawkins, Chủ tịch và cũng là Giám đốc Điều

hành của Southeast Asset Management, công ty đã từng tư vấn Longleaf

Partners, sắp xếp và thảo ra các điều khoản của vụ mua bán.

Một năm sau đó, giữa tháng Sáu năm 2003, Buffett, Legg Mason, và Longleaf

Partners đã trao đổi với nhau 174 triệu đô la cổ phiếu thường Level 3 trị giá

500 triệu đô la (bao gồm 27 triệu cổ phiếu chưa chuyển đổi). (Longleaf đã

chuyển đổi 43 triệu cổ phiếu vào đầu năm và sau đó chuyển đổi phần còn

lại trị giá 457 triệu đô la vào tháng 6).

Buffett đã nhận được 36,7 triệu cổ phiếu. Tháng 6, ông bán 16,8 triệu và thu

về 117,6 triệu đô la, và tháng 11 ông bán thêm 18,3 triệu và thu được 92,4

triệu đô la. Rõ ràng, Level 3 Communications đã thực hiện tốt việc trả nợ, và

cuối năm 2003, Buffett nhân đôi số tiền của mình chỉ trong vòng 16 tháng.

Thêm vào đó, trái phiếu của ông đã đem về 45 triệu đô la lợi nhuận, và ông

vẫn nắm giữ tới 1.644.900 cổ phiếu của Level 3.

Qwest

Mùa hè năm 2002, Berkshire mua hàng trăm triệu đô la trái phiếu do công ty

Qwest Communications phát hành. Qwest là công ty viễn thông có sức cạnh

tranh lớn, có trụ sở tại Denver trước đây có tên là US West và công ty con điều

tiết vận hành Qwest Corporation. Lúc đó, công ty có một khoản nợ là 26 triệu

đô la. Những lời đồn đại về việc phá sản bắt đầu lan rộng. Trái phiếu của tập

đoàn Qwest đang được bán với mức giá 35 tới 40 xu trên 1 đô la và giá trái

phiếu của công ty điều hành chỉ ở mức 80 xu trên 1 đô la. Một số loại cổ phiếu

có mức lãi suất là 12,5% và được đảm bảo bằng những tài sản cụ thể, những

trái phiếu khác có mức độ rủi ro cao hơn, không có tài sản đảm bảo. Buffett

mua cả hai loạinày.

Các phân tích vào thời điểm đó cho thấy tài sản của Qwest đủ giá trị để Buffett

coi đó là một cơ hội đầu tư tốt. Nếu không vì phải trả trái tức, Qwest đã có

một dòng tiền lớn. Tài sản giá trị nhất của công ty là vụ nhượng quyền kinh

doanh dịch vụ điện thoại công cộng địa phương cho 14 bang. Song, Buffett tin

rằng dưới sự lãnh đạo của Dick Notebaert, Qwest sẽ giải quyết được vấn đề

của mình.

Amazon.com

Tháng Bảy năm 2002, chỉ một tuần sau khi Buffett gửi thư cho Giám đốc Điều

hành Jeff Beroz để khen ngợi quyết định của ông khi coi quyền chọn cổ phiếu

như một khoản chi phí, Buffett đã mua 98,3 triệu đô la trái phiếu có tỉ suất lợi

nhuận cao của Amazon.

Buffett đánh giá rất cao những nhà quản lý biết cách làm nổi bật những giá trị

lớn lao của công ty. Từ lâu, ông cũng biện hộ cho chi phí quyền chọn cổ phiếu,

nhưng chắc chắn ông không có nghĩa vụ mua trái phiếu của Amazon.com.

Công ty bảo hiểm The Government Employees, một đơn vị

bảo hiểm ô tô của Berkshire, đã thu khoản lợi nhuận là 16,4 triệu đô la nhờ

đầu tư vào trái phiếu có tỉ suất lợi nhuận cao, một khoản lợi nhuận là 17%

trong vòng chín tháng nếu Amazon mua lại 10% trái phiếu được phát hành

năm 1998 trị giá 264 triệu đô. Mùa hè năm đó, Buffett mua thêm 67⁄8% trái

phiếu chuyển đổi của Amazon trị giá 60,1 triệu đô la. Như vậy, với mức giá 60

đô la cho 1 nghìn trái phiếu, khoản lợi nhuận thu về sẽ là 11,46% và khoản lợi

nhuận tối đa thậm chí sẽ lớn hơn nếu tính thêm trái tức.

Ai cũng biết rằng Buffett chỉ đầu tư vào những gì mà ông hiểu rõ và tránh xa

ngành công nghệ. Sự quan tâm của ông đối với Internet chỉ giới hạn trong ba

hoạt động trực tuyến: mua sách, đọc tạp chí điện tử Wall Street Journal và

chơi bài brít. Ông thậm chí còn cười nhạo sự lảng tránh công nghệ của mình

trong thư gửi cổ đông năm 2000: "Chúng ta bước vào thế kỷ XXI bằng cách

tham gia vào những ngành ít mạo hiểm như gạch, thảm và sơn. Hãy cố gắng

kiềm chế sự phấn khích của mình".

Vậy tại sao trái phiếu của Amazon lại cuốn hút ông? Như ông thừa nhận,

trước hết là vì những trái phiếu ấy quá rẻ. Thứ hai, ông tin tưởng rằng công ty

sẽ sớm phát triển. Buffett cũng nhận thấy Amazon.com có những đặc điểm

khá giống với những công ty bán lẻ mà ông đã đầu tư. Amazon.com kiếm

được lợi nhuận bằng doanh thu bán hàng khổng lồ nhờ giá rẻ. Mặc dù lợi

nhuận thấp, nhưng công ty hoạt động hết sức hiệu quả và sinh lãi. Buffett

khâm phục cách Zeros xây dựng thương hiệu mạnh và chèo lái công ty vượt

qua những giai đoạn khó khăn.

Nghiệp vụ mua bán song hành

Nghiệp vụ mua bán song hành theo hình thức đơn giản nhất là mua một loại

chứng khoán ở một thị trường và cùng lúc bán loại chứng khoán đó ra thị

trường khác. Mục đích là thu được lợi nhuận nhờ chênh lệch giá. Ví dụ, nếu

chứng khoán của một công ty có giá 20 đô la một cổ phiếu ở thị trường

London và 20,01 đô la ở thị trường Tokyo, thì người kinh doanh chứng khoán

sẽ thu được lợi nhuận từ việc đồng thời mua chứng khoán ở thị trường

London và bán ra ở Nhật Bản. Trong trường hợp này, không có rủi ro về đồng

vốn. Người kinh doanh chứng khoán chỉ kiếm lợi từ sự thiếu hiệu quả giữa

các thị trường. Vì hình thức giao dịch này không có rủi ro, nên được gọi là

kinh doanh chứng khoán không rủiro.

Rủi ro phổ biến nhất của nghiệp vụ này liên quan tới việc mua một loại chứng

khoán với giá ưu đãi và mong chờ giá trị trong tương lai. Giá trị trong

tương lai này thường phụ thuộc vào việc sáp nhập, giải thể, đấu thầu hay tái

cơ cấu doanh nghiệp. Rủi ro mà nhà kinh doanh chứng khoán phải đối mặt là

giá công bố trong tương lai của chứng khoán có thể không trở thành hiện

thực.

Theo như giải thích của Buffett, để đánh giá nguy cơ rủi ro khi mua bán song

hành, bạn phải trả lời được bốn câu hỏi cơ bản sau: Liệu những sự kiện đầy

hứa hẹn sẽ thực sự xảy ra ở mức nào? Tiền của bạn sẽ nằm im trong bao lâu?

Liệu còn có cơ hội nào tốt hơn không - chẳng hạn như một cuộc đấu giá mua

lại đầy cạnh tranh? Điều gì sẽ xảy ra nếu sự kiện đó không xảy ra, ví dụ một

hành động đánh mất lòng tin, hay một cuộc biến động tài chính?

Trước những ý tưởng có thể đầu tư được, Buffett thường chuyển sang mua

bán song hành như một cách hữu hiệu để tận dụng số tiền dư thừa của mình.

Một ví dụ chứng minh cho điều này là Buffett đã mua 600 nghìn cổ phần của

tập đoàn Arkarta năm 1981 khi công ty này đang bị rao bán. Tuy nhiên, trong

khi các nhà kinh doanh chứng khoán khác tham gia vào khoảng 50 giao dịch

hoặc hơn mỗi năm, Buffett chỉ tham gia rất ít, nhưng lại là những giao dịch rất

lớn. Ông hạn chế tham gia vào những giao dịch được công bố, hay những thoả

thuận tỏ ra thân thiện, và từ chối đầu cơ vào những vụ mua lại công ty đầy

tiềmnăng.

Mặc dù ông chưa bao giờ tính toán hiệu quả của mua bán song hành trong

suốt những năm qua, nhưng ông ước tính rằng nhờ nó, mỗi năm Berkshire

thu về khoản lợi nhuận khoảng 25% trước thuế. Bởi vì mua bán song hành là

việc thay thế cho trái phiếu kho bạc ngắn hạn nên mong muốn của ông trong

việc mua bán song hành thay đổi theo mức tiền mặt của Berkshire.

Hiện nay, mặc dù không tham gia mua bán song hành trên quy mô lớn nhưng

ông vẫn giữ một lượng tiền mặt dư thừa và những khoản đầu tư có tính thanh

khoản ngắn hạn khác. Đôi lúc, Buffett giữ trái phiếu trung hạn, trái phiếu miễn

thuế làm khoản thay thế cho tiền mặt. Ông nhận ra rằng, khi thay thế những

trái phiếu kho bạc ngắn hạn bằng những trái phiếu trung hạn, ông sẽ tránh

được rủi ro của những khoản lỗ lớn nếu buộc phải bán vào những thời điểm

không thuận lợi. Nhưng vì những trái phiếu miễn thuế thường có lợi nhuận

sau thuế cao hơn trái phiếu kho bạc, nên Buffett nhận định những khoản lỗ có

thể được đền bù bằng những khoản thu nhậpkhác.

Với việc mua bán song hành thành công, các cổ đông của Berkshire có lẽ tự

hỏi rằng vì sao Buffett lại từ bỏ chiến lược này. Công bằng mà nói, lợi nhuận

đầu tư của Buffett cao hơn nhiều so với những gì ông tưởng tượng, nhưng

đến năm 1989, môi trường mua bán song hành đã thay đổi. Thặng dư của thị

trường tài chính đã tạo môi trường cho sự hăng hái nhiệt tình quá dễ dãi.

Buffett không biết khi nào những người cho vay và những người mua mới có

thể thoả mãn được, nhưng ông luôn hành động thận trọng trong khi những

người khác lại quá dễ dãi. Buffett rút khỏi các giao dịch mua bán song hành

thậm chí trước sự sụp đổ của UAL tháng Mười năm 1989. Một lý do khác chỉ

là vì những giao dịch có quy mô lớn tới mức có thể làm thay đổi danh mục

đầu tư khổng lồ của ông.

Dù thế nào đi nữa, việc rút khỏi mua bán song hành giúp ông để ý tới những

cổ phiếu ưu đãi có khả năng chuyển đổi.

Cổ phiếu ưu đãi có khả năng chuyển đổi

Một cổ phiếu ưu đãi có khả năng chuyển đổi là một loại chứng khoán mang

đặc điểm của cả cổ phiếu lẫn trái phiếu. Nhìn chung, những cổ phiếu này đem

lại cho nhà đầu tư thu nhập hiện tại cao hơn cổ phiếu thường. Tỉ lệ lãi suất cao

tạo ra lớp vỏ tự vệ khỏi nguy cơ giảm giá. Nếu thị trường sụt giảm, tỉ lệ lãi

suất cao hơn của cổ phiếu ưu đãi có khả năng chuyển đổi giúp chúng tránh sự

giảm giá nhiều như cổ phiếu thường. Theo lý thuyết, cổ phiếu chuyển đổi chỉ

giảm giá cho tới khi mức lãi suất hiện tại xấp xỉ với giá trị của trái phiếu

không chuyển đổi có cùng tỉ lệ lãi suất, mệnh giá và thờihạn.

Một cổ phiếu ưu đãi có khả năng chuyển đổi cũng tạo cho những nhà đầu tư

cơ hội có được tiềm năng tăng giá của cổ phiếu thường. Bởi vì nó có thể

chuyển đổi thành cổ phiếu thường nên khi cổ phiếu thường tăng giá, cổ phiếu

chuyển đổi cũng tăng theo. Tuy nhiên, vì cổ phiếu chuyển đổi có tỉ lệ lãi suất

và có tiềm năng lợi nhuận cao hơn nên nó thường được định giá cao hơn so

với cổ phiếu thường. Mức giá cao hơn này phản ánh tỉ lệ chuyển đổi từ cổ

phiếu ưu đãi sang cổ phiếu thường. Tỉ lệ chuyển đổi thông thường từ 20 đến

30%. Điều này có nghĩa là cổ phiếu thường phải tăng giá lên 20 đến 30%

trước khi cổ phiếu chuyển đổi có thể được chuyển đổi thành cổ phiếu thường

mà không mất đi giá trị.

Cũng giống như khi đầu tư vào trái phiếu có tỉ lệ lãi suất cao, Buffett đầu tư

vào cổ phiếu ưu đãi có khả năng chuyển đổi khi cơ hội đó tỏ ra tốt hơn cơ hội

khoản đầu tư khác. Cuối những năm 1980 và 1990, Buffett đầu tư vào

một số cổ phiếu ưu đãi có khả năng chuyển đổi, trong đó có Salomon

Brothers, Gillette, US-Air, Champion International, và American Express.

Một số nhóm có ý định thâu tóm một vài công ty kể trên, và Buffett được biết

đến như một "hiệp sĩ áo trắng", cứu những công ty này khỏi những kẻ xâm

lược hung hăng. Tuy nhiên, Buffett không xem mình là vị cứu tinh. Ông chỉ

đơn giản nhìn nhận rằng vụ mua bán này là cơ hội đầu tư tốt và có tiềm năng

lợi nhuận lớn. Vào thời điểm đó, cổ phiếu ưu đãi của những công ty này giúp

ông có khoản lợi nhuận lớn hơn bất cứ hình thức đầu tư nào khác.

Buffett biết rất rõ một số công ty phát hành cổ phiếu ưu đãi có khả năng

chuyển đổi, nhưng trong một số trường hợp, ông không hiểu rõ việc kinh

doanh của công ty, hay thậm chí ông không thể tự tin để dự đoán dòng tiền

trong tương lai. Buffett giải thích rằng lí do không thể dự đoán được là vì

Berkshire muốn đầu tư vào cổ phiếu ưu đãi có thể chuyển đổi hơn là cổ phiếu

thường. Mặc dù có khả năng chuyển đổi, nhưng trong mắt ông, giá trị thực sự

của cổ phiếu ưu đãi là đặc điểm mang lại thu nhập ổn định.

Chỉ có một ngoại lệ: MidAmerican. Đây là một giao dịch có nhiều khía cạnh

liên quan tới cổ phiếu ưu đãi chuyển đổi, cổ phiếu thường, cũng như các

khoản nợ. Trong trường hợp này, Buffett đánh giá cao cổ phiếu ưu đãi chuyển

đổi vì thu nhập ổn định cũng như vì việc góp vốn trong tương lai.

MidAmerican

Ngày 14 tháng Ba năm 2000, Berkshire mua 34,56 triệu đô la cổ phiếu ưu đãi

chuyển đổi cùng với 900.942 cổ phiếu thường của MidAmerican, một công ty

điện và xăng dầu khí đốt có trụ sở tại Des Moines, với số tiền khoảng 1,24

triệu đô la, tức là khoảng 35,05 đô la một cổ phiếu. Hai năm sau, Berkshire

mua thêm 6,7 triệu đô la cổ phiếu ưu đãi có khả năng chuyển đổi với giá tiền

là 402 triệu đô la. Điều này khiến việc nắm giữ cổ phiếu của Berkshire lên tới

9% quyền biểu quyết và hơn 80% lợi nhuận kinh tế của MidAmerican.

Từ năm 2002, Berkshire và một số công ty con cũng mua thêm khoảng 1,728

triệu đô la cổ phiếu ưu đãi không chuyển đổi, trong đó 150 triệu đô la cổ

phiếu được mua lại vào tháng Ba năm 2003. David Sokol, Chủ tịch và Giám

đốc Điều hành của MidAmerican, và Walter Scott, cổ đông lớn nhất của công

ty đã đầu tư phần còn lại là 300 triệu đô la. Trong thực tế, chính Scott là người

đầu tiên đã tiếp cận với Buffett; đó là vụ giao dịch lớn nhất của họ

trong suốt 50 năm làm bạn của họ.

Giá mà Buffett trả cho MidAmerican khá thấp, theo một báo cáo là từ 34 đến

48 đô la một cổ phiếu, vì vậy, Buffett có khả năng đã được chiết khấu ở mức

nào đó. Nhưng Buffett cũng cam kết với chính bản thân mình và với Berkshire

về sự tăng trưởng của MidAmerican trong tương lai ở mức độ là họ sẽ hỗ trợ

việc mua đường ống dẫn có giá trị lên tới 15 triệu đô la. Với sự giúp đỡ của

Buffett, MidAmerican mua đường ống dẫn từ những thương gia đang trong

cảnh túng quẫn. Việc mua đường ống dẫn là một phần trong chiến lược tăng

trưởng của công ty.

Một giao dịch tương tự như vậy diễn ra nhanh chóng. Tháng Ba năm 2002,

Buffett mua của công ty Williams có trụ sở tại Tulsa dự án chuyển xăng dầu

qua sông Kern. Dự án này sẽ vận chuyển khoảng 23 triệu m3 xăng dầu mỗi

ngày trên tuyến đường dài hơn 1500 km. Buffett đã trả số tiền là 960 triệu đô

la, bao gồm cả việc gánh vác khoản nợ và thêm 1 triệu đô la chi phí vốn.

Sau đó, năm 2002, MidAmerican tiếp tục mua đường ống dẫn xăng dầu của

công ty Dynegy với giá thoả thuận là 900 triệu đô la, cộng thêm việc chi trả

các khoản nợ. Sau đó, vào đầu tháng Một năm 2004, Berkshire tuyên bố công

ty sẽ tăng 30% chi phí, tương đương 2 triệu đô la, đầu tư vào đường ống dẫn

khí đốt tự nhiên từ nguồn dự trữ khí đốt tự nhiên ở Bắc Alaska, điều này sẽ

tăng nguồn dự trữ của Mỹ là 7%. Sokol, Chủ tịch của MidAmerican nói rằng

nếu không có sự giúp đỡ của Buffett thì sự đầu tư này sẽ là một gánh nặng đối

vớiMidAmerican.

Trong một giao dịch hoàn toàn khác nhưng có liên quan, công ty con của

Berkshire là MEHC Investment Inc., mua 275 triệu đô la cổ phiếu ưu đãi của

Williams. Cổ phiếu ưu đãi này thông thường không có quyền bỏ phiếu như cổ

phiếu thường trong đại hội cổ đông, nhưng trong vụ giao dịch này, Berkshire

Hathaway có quyền bỏ phiếu 20% của Hội đồng Quản trị MidAmerican, cũng

như quyền thông qua các giao dịch quan trọng.

Cũng mùa hè năm đó, Buffett cùng với Lehman Brothers, đã cung cấp cho

Williams một khoản vay 900 triệu đô la có thời hạn là một năm, tỉ lệ lãi là

19%, được đảm bảo bằng hầu hết tài sản xăng dầu và khí đốt của Barrett

Resources. Những tài sản này trước đây Williams mua với giá 2,8 triệu đô la.

Người ta đồn rằng số tiền Buffett cho vay chỉ là một phần trong số tiền và

khoản tín dụng mà Williams, một công ty đánh giá đầu tư, đang rất cần để

tránh phá sản. Điều khoản của vụ mua bán rất cứng rắn, nặng trĩu những

điều kiện và những khoản phí mà theo lời đồn đại có thể khiến tỉ lệ lãi suất lên

tới 34%. Mặc dù vậy, người ta vẫn tranh cãi rằng Buffett không những giúp

công ty đánh giá đầu tư thoát khỏi tình trạng khốn khó mà còn bảo vệ chính

bản thân ông tránh khỏi nguy cơ rủi ro cao trong tình huống này.

Mặc dù MidAmerican không phải là khoản đầu tư duy nhất của Buffett trong

lĩnh vực năng lượng, nhưng rõ ràng khoản đầu tư này rất phức tạp và nhiều

khía cạnh. Buffett tin rằng giá trị công ty lớn hơn thị giá hiện tại. Ông biết ban

quản lý, bao gồm Walter Scott và David Sokol, đang vận hành công ty là

những người đáng tin cậy, chính trực và thông minh. Cuối cùng, ngành năng

lượng là một ngành ổn định, và Buffett hi vọng rằng ngành này sẽ trở nên ổn

định và đem lại nhiều lợi nhuận hơn nữa.

Ở MidAmerican, Buffett đầu tư bằng cách góp vốn cho công ty. Với tất cả

khoản đầu tư của mình, ông là chủ sở hữu và cam kết nỗ lực vì sự tăng trưởng

của công ty. Ông thu được lợi nhuận từ những công cụ có thu nhập ổn định

của Williams, trong khi vẫn đảm bảo cho bản thân bằng hợp đồng,

lãi suất cao và tài sản (Barrett Resources). Vào tháng Mười năm 2003,

MidAmerican phát triển trở thành nhà phân phối điện lớn thứ ba ở Anh và

cung cấp điện cho 689.000 người ở Iowa trong khi đường ống dẫn sông Kern

và Northern Natural chiếm khoảng 7,8 % khí đốt tự nhiên ở Mỹ. Tổng cộng,

công ty có khoảng 19 triệu đô la tài sản và 6 triệu đô la doanh thu hàng năm

từ 25 bang và một số quốc gia khác, đem lại cho Berkshire Hathaway khoản

lợi nhuận khoảng 300 triệu đô la mỗinăm.

Điều quan trọng cần nhớ là Buffett nghĩ rằng cổ phiếu ưu đãi chuyển đổi

trước hết là những cổ phiếu có thu nhập ổn định và thứ hai là biện pháp tăng

giá trị. Bởi vậy, giá trị của cổ phiếu ưu đãi của Berkshire không thể thấp hơn

giá trị của cổ phiếu ưu đãi không chuyển đổi tương tự, và thậm chí là cao hơn

vì có quyền chuyển đổi.

Buffett được nhiều người công nhận là nhà đầu tư vĩ đại nhất thế giới. Điều

này về cơ bản có nghĩa là mua cổ phiếu, trái phiếu, những chứng khoán khác

và những công ty, với giá thấp hơn nhiều so với giá trị thực của chúng và chờ

đợi cho tới khi thu được giá trị tài sản. Cho dù đó là những cổ phiếu thượng

hạng, hay những chứng chỉ nợ tỉ lệ lãi suất cao, ông cũng đều áp dụng những

nguyên tắc giống nhau. Nhà đầu tư giá trị sẽ đến những nơi đem lại lợi

nhuận.

Mặc dù mọi người thường nghĩ Buffett là nhà đầu tư dài hạn khi mua cổ phiếu

thường, nhưng ông có khả năng, có thế lực và có vốn để tham gia vào những

ngành đang gặp khó khăn và nhặt những viên kim cương trong bãi đá. Ông

lựa chọn những công ty có những nhà quản lý trung thực và thông minh và có

những sản phẩm tạo ra lợi nhuận. Ông cũng chọn lựa công cụ, hình thức đầu

tư phù hợp nhất vào từng thời điểm. Thông thường, ông quyết định đúng, và

khi không đúng, ông thừa nhận điều đó. Quyết định đầu tư của ông chuyển

phần lớn sang những công cụ đem lại thu nhập ổn định trong năm 2002 và

2003 là hoàn toàn đúng đắn. Năm 2002, tổng thu nhập của Berkshire từ

khoản các đầu tư đem lại thu nhập ổn định là 1 triệu đô la. Năm 2003, con số

này tăng gần ba lần lên tới 2,7 triệu đô la.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#truyện