CHƯƠNG VII

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Translator: Calm Lake

CHƯƠNG 7: LOOSEY GOOSEY

Tối hôm sau cặp song sinh ngồi trong phòng khách và xem thời sự cùng với ngài Lampton. Mũi cách màn hình vô tuyến có vài phân, ngài Lampton hoàn toàn ngất ngây trước cái vô tuyến. Đầu ông nghiêng sang một bên và một bên tai dỏng lên.

“Phải nói rằng trong số tất cả những công nghệ mà ta được biết ở thế giới này, ta thích thứ này nhất!” cái đuôi của ngài ve vẩy. “Vô tuyến thật hay ho!”

“Còn ta từng thấy những chiếc gương ma thuật làm những chuyện còn ấn tượng hơn nhiều,” tiên Xanthous nói trong lúc theo dõi bên ngoài qua ô cửa sổ. “Mặc dù có một thứ ta nghĩ mình nhất định có thể làm mà không cần tới nó, đó là cái đồng hồ lửa. Nếu ta tắt nó lần nữa, ta thề là sẽ giật nó ra khỏi tường và thiêu trụi nó.”

“Chà, với tất cả sự tôn kính của mình, con phải nói rằng ở thế giới này việc đốt lửa chưa bao giờ được coi là một việc hay ho,” Conner nói.

Tiên Xanthous nhướn một bên lông mày với vẻ suy xét và trở lại với cái cửa sổ của ông. Nhưng vai ông thì bốc lửa.

Bất chợt một tia sáng chiếu rọi cả căn phòng. Cặp song sinh nhìn lên, đang bay từ trần nhà xuống là một phong thư xanh da trời khác, giống như chiếc phong thư ngày hôm trước. Một lần nữa, tiên Xanthous bay lên tóm lấy phong thư và đọc lá thư của bà chúng trong không trung, giữ cho lá thư nằm ngoài đôi mắt tò mò của cặp song sinh.

Khi đọc xong, ông để phong thư lên vai và để nó cháy sạch trước khi hạ đất.

“Chúng ta phải di chuyển,” tiên Xanthous và lập tức khiến cặp song sinh chú ý. “Ngài Lampton và ta phải trở về thế giới của mình.”

“Tại sao thế?” Alex hỏi

Phải mất một lúc tiên Xanthous mới có câu trả lời.

“Mẹ tiên đỡ đầu cần chúng ta trở về,” ông trả lời đơn giản. “Các con không cần lo lắng, bà ấy đang cử người khác đến trông nom các con.”

Conner càu nhàu. “Ồ, tuyệt,” mắt đảo một vòng lớn. “Giờ thì ai sẽ là bảo mẫu của tụi con đây? Một vị tiên răng chăng?”

“Không, Mẹ Ngỗng sẽ thay thế tụi ta,” tiên Xanthous trả lời.

Alex và Conner nhìn ông với vẻ trống rỗng rồi quay ra nhìn nhau. Ông ấy đang nói thật chứ? Tiên Xanthous không có vẻ là người hài hước.

“Sao?” tiên Xanthous hỏi lại chúng, không có chút vẻ đùa cợt nào. “Ta nói nghiêm túc đấy. Tối nay bà ấy sẽ bay từ Châu Âu qua đây.”

“Mẹ Ngỗng đó ư?” Conner hỏi lại. “Là Mẹ Ngỗng trong truyện ‘Jack và Jill leo lên đồi’ ư?”

“Tât nhiên là Mẹ Ngỗng đó rồi,” tiên Xanthous nhìn cậu như thể ông coi cậu đã bị mất trí. “Còn có Mẹ Ngỗng nào nữa chứ?”

“Bà ấy đang làm gì ở Châu Âu vậy ạ?” Alex hỏi.

“Phải có ai đó tiếp tục công việc của bà các cháu trong lúc bà các cháu giải quyết những rắc rối ở nhà chứ,” tiên Xanthous nói. “Nhưng ta sẽ không nhắc tới hai cái tên Jack và Jill trước mặt bà ấy, trừ khi hai đứa muốn bà ấy thao thao bất tuyệt về những mưu đồ suốt đêm đâu. Mẹ Ngỗng luôn có vẻ hơi… ừm… khó chịu.”

Mẹ Ngỗng là thành viên duy nhất trong Hội đồng hạnh phúc mãi về sau mà cặp song sinh chưa gặp mặt khi chúng còn ở Xứ sở những câu chuyện, nên chúng rất nóng lòng được gặp bà. Tuy vậy, người phụ nữ mà chúng tưởng tưởng và người phụ nữ mà chúng gặp rất khác nhau.

Đã quá nửa đêm được một lúc, cặp song sinh bị đánh thức bởi tràng sủa của ngài Lampton.

“Bà ấy đã tới! Bà ấy tới rồi!” ngài Lampton hét vang cả căn nhà. “Mẹ Ngỗng đang hạ cánh!”

Cặp song sinh gặp nhau tại hành lang, cùng nhau lao bổ xuống dưới lầu, và theo sau tiên Xanthous và ngài Lampton ra sân sau. Chúng nhìn lên bầu trời đêm nhưng chẳng nhìn thấy gì khác ngoài mặt trăng và những vì sao.

“Cháu có thấy gì đâu,” Conner nói

“Tin ta đi,” ngài Lampton nói với đôi tai dỏng cả lên. “Ta có thể nghe thấy tiếng bà ấy.”

Đột ngột, một bóng hình lớn bay qua mặt trăng. Một vật thể lớn đang tiến về phía họ. Cặp song sinh nhíu mắt lại, cố nhìn xem đó là gì. Vật thể đó càng tới gần, chúng càng có thể nhìn thấy rõ hơn, đang cưỡi trên lung một chú ngỗng trắng khổng lồ, không ai khác là Mẹ Ngỗng.

“Cháu phải thừa nhận là khi ông nói bà ấy sẽ bay tới đây tối nay, cháu chưa bao giờ nghĩ tới cảnh tượng này,” Conner nói.

Từ từ nào Lester! Chậm thôi nào, cậu bé!” Mẹ Ngỗng hét lên, giọng bà bực tức. Bà giật mạnh bộ lông chỗ thắt lưng chú chim khổng lồ của bà.

Họ đang hạ cánh nhanh tới nỗi cặp song sinh và ngài Lampton phải chui người xuống một cái bàn đặt ngoài sân. Tiên Xanthous vẫn đứng nguyên tại chỗ, không chút suy chuyển—ông đã chứng kiến Mẹ Ngỗng hạ cánh trước đây.

Chú Ngỗng tiếp đất bịch một cái khiến ngôi nhà phía sau họ rung chuyển. Có cảm giác có một trận động đất nhỏ vừa xảy ra.

“Chúa tôi, Lester! Mi gọi đó là tiếp đất hả?!” Mẹ Ngỗng quở trách chú ngỗng cỡ một con ngựa của bà. “Thậm chí thiên thạch còn nhẹ nhàng hơn mi, đồ ngỗng đực ngốc nghếch!”

Lester đảo tròn mắt, ít nhất là trong suy nghĩ của cặp song sinh. Đôi chân có màng của nó bị lún sâu xuống bãi cỏ, và vất vả lắm nó mới nhấc nổi chân lên.

Mẹ Ngỗng là một người phụ nữ có tuổi, người thấp và béo chắc. Bà có mái tóc cong màu xám bên dưới một chiếc mũ du lịch nhọn đầu màu đen có một cái khóa bạc phía trước. Bà mặc một chiếc váy xanh lá đã bạc màu có cổ diềm xếp nếp màu trắng, đi một đôi bốt lớn, và đeo một chiếc kính phi công dày cộp.

“Mà không biết chúng ta có xuống đúng nơi không biết?” Mẹ Ngỗng nhìn quanh. “Ta không thể tìm thấy tấm bản đồ của mình—đó là lý do ta cần cài GPS vào phía sau đầu của mi.”

Cặp kính phi công khiến mắt bà to lạ thường và hiển nhiên làm giảm tầm nhìn của bà bởi bà không nhìn thấy tiên Xanthous đang đứng ngay phía trước mặt.

“Xin chào, Mẹ Ngỗng,” tiên Xanthous lên tiếng kèm thêm một chút vui mừng gượng ép. “Bà đã tới đúng nơi rồi. Chào mừng bà tới nhà Bailey.”

“Xanny, là ông đó sao?” Mẹ Ngỗng tháo kính ra. Mặt bà đỏ lựng, rõ là do ảnh hưởng thời tiết trong lúc bay. “Ồ, Xanny, thật vui được gặp ông! Tôi đã lo rằng Lester lại đưa mình tới Tijuana. Nó rất thích Mexico.”

Tiên Xanthous nhăn mình khi nghe cái cách bà ấy gọi ông. “Ngoài sự cố tiếp đất, tôi mong toàn bộ chuyến bay của bà đều thuận lợi.”

Mẹ Ngỗng nhảy xuống khỏi Lester với vẻ khó khắn. “Ồ, ổn, ổn hết,” bà đáp. “Ngoại trừ lúc thứ sẽ bị nhồi vào gối bông này lao vào một chiếc 747 lúc qua Pittsburgh. Con chim ngu ngốc.”

Lester chậm chạp lắc đầu. Hiển nhiên, nó có cách nhìn khác về chuyện này.

“Những chiếc máy bay quỷ quái đó to tới nỗi không còn nhiều khoảng trời cho tụi tôi,” Mẹ Ngỗng nói. “Giá gì tôi chưa từng khích lệ anh em nhà Wright (những người đã phát minh ra máy bay đầu tiên)—đó là lỗi lầm lớn nhất trong đời tôi!”

Bà duỗi người và các khớp lưng của bà nổ tanh tách như pháo. Alex, Conner và ngài Lampton cẩn trọng bò ra khỏi cái bàn và tiến lại gần bà ấy.

“Mẹ Ngỗng, giới thiệu với bà cặp song sinh,” tiên Xanthous nói. “Đây là Alex và Conner—”

« Rồi, rồi—tôi đã gặp tụi nhóc trước đây,” Mẹ Ngỗng nói. Bà chống tay vào hông và nhìn chúng.

“Bà từng gặp tụi con rồi ư?”

“Nhiều năm trước đây, khi hai đứa còn là những đứa bé. Ta đã cùng với bà các con tới thăm hai đứa,” Mẹ Ngỗng nói với chúng. Bà chỉ vào Alex rồi tới Conner. “Nếu trí nhớ của ta còn tốt thì con chưa bao giờ ngừng khóc, và con đã tè vào người ta khi ta thay tã cho con.” Bà nghiêng người lại gần chúng, nhìn chúng với vẻ nghiêm túc. “Ta đã bỏ qua chuyện đó vì là lần đầu, nhưng chuyện đó tốt nhất là không lên lặp lại.”

Alex và Conner cùng nuốt nước miếng; giờ thì chúng hiểu những gì tiên Xanthous đã ám chỉ là gì. Gương mặt nghiêm trọng của Mẹ ngỗng bỗng biến thành một nụ cười thật rộng, bà cười khanh khách.

“Thư giãn nào! Ta chỉ kéo có mấy cái lông đuôi của mi thôi!” bà nói. Mẹ Ngỗng quay lại chỗ Lester và lôi xuống từ trên lưng nó một chiếc rổ lớn. “Con sẽ mang hộ hành lý của ta vào nhà chứ?”

Bà đeo chiếc rổ nặng vào cánh tay Conner, cậu càu nhàu bởi sức nặng của nó.

“Còn con,” Mẹ Ngỗng nói với Alex. “Con sẽ không phiền việc mang cho Lester một xô rau chứ? Nó cần được cho ăn sau mỗi chuyến bay dài. Chỉ cần không phải là bông cải xanh; thứ rau đó sẽ khiến nó xì hơi.”

Chú ngỗng nhìn bà với đôi mắt mở to và cái mỏ há ra—đờ người vì chủ nhân của nó lại nói với người khác chuyện riêng của nó.

Đừng có nhìn ta như vậy, Lester; sự thật vốn vậy mà!” Mẹ Ngỗng nói.

“Bà muốn con cho nó ăn ư?” Alex lo lắng hỏi lại, bước giật lùi khỏi chú chim ngoại cỡ.

“Đừng có làm Lester hoảng sợ,” Mẹ Ngỗng trấn an cô. “Nó chỉ kêu quác và không hề lạch bạch đâu.”

Tiên Xanthous và ngài Lampton đưa Mẹ Ngỗng vào trong nhà. Conner kéo lê cái giỏ theo sau; cái giỏ quá nặng nên cậu quẳng lên vai. Alex trở vào phòng bếp và ném tất cả số rau mà cô có thể tìm thấy vào một cái âu lớn cho Lester.

Mẹ Ngỗng ngó quanh căn nhà thuê của gia đình Bailey. “Không tệ, cũng không tệ.”

“Chỉ là nhà thuê thôi ạ,” Conner nói. « Gia đình tụi con ở đây mới được hai năm. »

“Ta đã từng sống cùng một bà già trong một chiếc giày rất lâu trước khi bà ấy trang hoàng lại nó,” Mẹ Ngỗng đáp. “Tin ta đi, sau khoảng thời gian đó thì bất cứ nơi nào cũng giống như một cung điện. Ta sẽ không bao giờ có thể quên cái mùi đó.”

“Giờ thì căn nhà này giống như nhà giam đối với tụi con,” Conner nói.

“Chàng trai trẻ, ta đã tới thăm và được người khác tới thăm trong nhiều nhà giam rồi—nơi này không phải là một nhà giam,” bà nói. “Hãy đặt chiếc rổ của ta gần lò sưởi.”

Conner kéo cái rổ tới chỗ lò sưởi. Mẹ Ngỗng cho tay vào bên trong rổ và lấy ra một cái ghế bập bênh bằng gỗ khổng lồ. Conner không thể tin nổi vào mắt cậu; cái ghế đó còn lớn hơn cả chiếc rổ. Cậu tự hỏi bên trong rổ còn có những thứ đồ phép thuật nào.

Mẹ Ngỗng ngồi xuống chiếc ghế và đá bỏ đôi bốt của bà ra. Bàn chân bà, ngạc nhiên thay, lại nhỏ hơn rất nhiều so với đôi bốt mà bà đi.

“Xanny, ông có thể đốt thứ này lên hộ tôi không?” Mẹ Ngỗng gật đầu về phía lò sưởi.

Tiên Xanthous do dự búng tay về phía lò sưởi. Một quả cầu lửa từ ngón tay trỏ của ông bắn vào một thanh củi trong lò.

“Cám ơn, Xanny,” Mẹ Ngỗng nói. “Ta đoán mình không thể thuyết phục ai trong số hai người chà chân cho ta?”

Conner và tiên Xanthous nhìn bà chòng chọc với vẻ mắt nhất quyết không. Mẹ Ngỗng nhún vai. “Xin lỗi vì đã nhỡ lời,” bà nói.

Alex đã cho Lester ăn xong và quay vào trong nhà.

Một tia sáng khác lại trùm lên cả căn phòng; nhưng lần này không có phong thư nào hết mà một cánh cửa trắng xuất hiện ngay giữa phòng. Alex và Conner nhìn nhau, biết rằng nó dẫn tới thế giới cổ tích. Chúng muốn lao thẳng qua cánh cửa, nhưng chúng biết sẽ có người cản chúng lại.

“Cánh cửa đó là dành cho chúng ta,” tiên Xanthous nói với ngài Lampton. “Bà có chắc mình có thể xoay sở chuyện này không, Mẹ Ngỗng? Tôi đã giữ cho binh lính hoạt động theo lịch trình chặt chẽ. Luôn phải có hai người trong số họ gác trong nhà trong khi số còn lại thay nhau nghỉ ngơi và canh gác ngoài nhà—”

“Rồi, rồi, rồi—tôi biết luật rồi,” Mẹ Ngỗng nói, bập bênh cái ghế. “Đây đâu phải lần đầu tiên của tôi, Xanny. Tôi đã làm đủ thứ từ khi ông vẫn còn là một cậu nhóc. Tôi sẽ giữ cho tụi nhóc an toàn, ông không phải lo.”

“Rất tốt,” tiên Xanthous nói, giọng bực tức. Ngọn lửa trên người ông cháy hừng hực hơn bao giờ hết. “Đi thôi, ngài Lampton.”

Chú chó chạy lại chỗ cánh cửa. “Tạm biệt các con,” ngài Lampton nói. “Cầu cho các con được an toàn. Mong sớm gặp lại các con.”

Tiên Xanthous mở cánh cửa cho ngài Lampton và ngài chạy qua. Tiên Xanthous bước vào trong, ông quay lại nhìn cặp song sinh trước khi đóng cánh cửa lại. “Hãy hiểu cho mong muốn của bà các con,” ông nói và đóng cánh cửa lại.

Cánh cửa biến mất và cặp song sinh chán nản hơn bao giờ hết.

Mẹ Ngỗng đợi cho họ đi hẳn rồi bắt đầu lục cái rổ của bà.

“Chai sâm panh ở đâu rồi nhỉ?” bà tự hỏi mình. Bà vươn cả cánh tay vào trong rổ tìm kiếm. “Đây rồi,” bà nói là lôi ra một chiếc bình kim loại lớn. Bà tu một ngum lớn rồi “Aaaa…à” vẻ thỏa mãn.

Alex và Conner nhìn nhau, trên mặt chúng xuất hiện những nụ cười nhếch môi.

“Hai đứa đang cười cái gì thế?” Mẹ Ngỗng hỏi chúng.

“Không gì ạ,” Alex thôi cười.

“Bà không giống với những gì mà tụi con đã tưởng tượng,” Conner nói, nụ cười của cậu trái lại lớn hơn gấp đôi.

“Và hai đứa đã tưởng tượng ra những gì?” Mẹ Ngỗng hỏi với một bên lông mày nhướn cao.

Conner nhún vai. “Con luôn nghĩ bà là, ừm, một con ngỗng khổng lồ có đội mũ túm dây đọc truyện cho trẻ em nghe,” cậu nói.

“Một quan niệm sai lầm thông thường,” Mẹ Ngỗng nói và tu thêm một ngụm rượu. “Thi thoảng Lester thích đội chiếc mũ đó của ta; nó thì cảm thấy thích thú nhưng chuyện đó làm rối hình ảnh của ta. Đừng có nhìn ta như vậy, Lester! Nếu không muốn ai nói chuyện đó của mi thì đừng có làm!

Lester nhìn chòng chọc vào bà qua ô cửa sổ từ sân sau. Mỏ nó há to và mắt thì nheo lại. Nó tự mình nằm ngủ trên bãi cỏ một cách thoải mái, đã quá đủ xấu hổ cho một ngày.

“Nó rất nhạy cảm,” Mẹ Ngỗng nói.

“Bà tìm một con ngỗng lớn như vậy ở đâu thế ạ?” Alex hỏi.

“Ta có nó từ nhiều năm trước,” Mẹ Ngỗng nói. “Ta đã đánh bài với một đôi yêu tinh trong rừng Chú lùn và thắng một quả trứng vàng to. Ta đã rất hào hứng—nghĩ rằng mình đã giàu to! Hai con có thể tưởng tượng ra nỗi thất vọng của ta khi nó chui ra khỏi quả trứng vào ngày hôm sau.”

“Oa,” Conner thốt lên. Cậu không biết chuyện gì thú vị hơn, về sự thật Lester nở ra từ một quả trứng vàng hay Mẹ Ngỗng là một tay cờ bạc.

“Ờ thì,” Mẹ Ngỗng tu thêm rượu sâm panh. “Ta đã bắt nó làm việc nhiều năm rồi. Nó trở thành phương tiện di chuyển chính của ta. Ta ghét những chiếc máy bay thương mại, ta cũng bị say sóng khi đi tàu biển, và bằng lái xe của ta đã bị treo nhiều năm nay.”

Bà càng uống nhiều, mắt bà càng nặng dần và cổ thì nghẹo xuống, bởi vì đầu bà bắt đầu đảo quanh. Bà giơ bình rượu ra trước cặp song sinh. “Bỏ quá cho ta nếu không phải, nhưng các con có muốn uống một chút không?” bà hỏi chúng.

“Con không nghĩ tụi con được cho phép uống thứ nước trong chiếc bình,” Alex đáp.

“Tùy con thôi,” Mẹ Ngỗng nói.

Alex nhìn chằm chặp bà với vẻ kiêng dè. Conner cũng nhìn bà chặp chặp nhưng với vẻ thích thú; Mẹ Ngỗng dần trở thành nhân vật cổ tích yêu thích của cậu hơn bao giờ hết.

Cậu nhìn vào trong rổ của bà. “Trong đó còn có gì không ạ?” Conner hỏi. “Có phải là hộ chiếu không?”

Mẹ Ngỗng nhanh tay đóng nắp giỏ lại và nhìn cậu.

Cậu cười xin lỗi. “Xin lỗi bà,” Cậu nói. “Con không có ý xâm phạm đời tư của bà, con chỉ không biết vì sao bà lại mang nhiều đồ như vậy?”

“Coi nè, nhóc,” bà nói, vẻ bị làm phiền. “Khi tụi con sống lâu và di chuyển nhiều như ta, tụi con sẽ tự tạo ra kẻ thù cho chính mình. Ta không giống bà nội các con; ta không hòa hợp được với tất cả mọi người. Có những nền văn hóa hay đất nước nơi ta không muốn nhắc tới không coi trọng một người phụ nữ đứng tuổi có ý kiến mạnh mẽ như ta.”

Mẹ Ngỗng gật đầu tự tin với bản thân và hớp thêm một ngụm rượu. Alex và Conner gật đầu theo, không dám phản đối.

Luôn phải có kế hoạch B và một người bạn bảo lãnh, như vậy bạn sẽ không bao giờ vấp ngã,” Mẹ Ngỗng lại uống thêm một ngụm nữa. “Đó là phương ngôn sống của ta.”

Từ ngữ trong câu nói của bà bắt đầu líu nhíu và mắt bà bắt đầu đong đẩy khi chúng mở to.

“Bà đã tới nơi nào ở Châu Âu vậy?” Alex hỏi, cố thay đổi chủ đề.

Ta đã tới một bệnh viện nhi ở Romania, rồi ghé qua một trại mồ côi ở Albania,” Mẹ Ngỗng đáp.

Cặp song sinh nhìn nhau xem đứa kia có nhận thấy điều đó không, nhưng bà ấy có vẻ đang gieo vần trong lúc nói.

“Vậy bà đã đọc những câu chuyện gì cho các em ấy?” Conner hỏi, ngăn bà ấy khỏi bị mất dần nhận thức. Cậu thấy chuyện này thật khôi hài nên không muốn nó kết thúc chút nào.

Ta đã đọc truyện ‘Jack và Jill,’ ‘Cô bé Muffet’—như thường lệ; tụi nhóc đó là một đám đông khó chiều, nghĩ rằng ta bị hoang tưởng.” Bà ấy ngáp nhưng vẫn cố mở mắt, hào hứng với chủ đề mới. “Muffet thi thoảng có đôi chút giống một danh ca, nhưng trước một con nhện cô bé vẫn luôn nhát cáy.”

Chẳng còn nghi ngờ gì nữa; Mẹ Ngỗng đang say sưa với việc gieo vần.

“Tuyệt,” Conner phá lên cười. « Vậy còn Jack và Jill thì sao ? Con luôn tự hỏi anh em nhà đó thực sự đã làm cái gì trên ngọn đồi đó.”

Alex đụng cùi chỏ vào cậu. Mẹ Ngỗng ngồi dậy trên chiếc ghế bập bênh của bà. Conner biết dù bà có sắp nói gì thì chắc hẳn cũng sẽ rất cú mèo. Alex thì không chắc mình có muốn nghe hay không.

Jack và Jill leo lên ngọn đồi đó, định lấy một xô nước,” Mẹ Ngỗng nói. “Jack ngã xuống, chiếc vương miện của cậu cũng bể luôn, là Jill đã đẩy cậu—nhưng không ai bắt quả tang cô!

“Không thể nào!” Conner nói, cười thầm.

Mẹ Ngỗng lắc đầu lên rồi xuống, gật đầu một cách cẩu thả.

“Lý do Jill đã đẩy Jack là gì ạ?” Alex hỏi.

Mẹ Ngỗng khúc khích cười. “Jack lanh lợi, Jack nhanh nhẹn—nhưng Jack có thể--” Bà dừng lại trước khi kết thúc câu nói, có thể vì nhớ ra mình đang nói chuyện với hai cô bé mười ba tuổi. “Ta nghĩ mình đã uống đủ rượu tối nay rồi. Đã tới giờ lên giường đi ngủ.”

Mẹ Ngỗng đặt chiếc bình rượu vào trong rổ và xua cặp song sinh đi ra chỗ khác. Đầu bà gục xuống ngực, mắt nhắm lại, và trên chiếc ghế bập bềnh bà chìm vào một giấc ngủ sâu. Bà gáy như một con gấu xám Bắc Mỹ.

“Anh thích bà ấy!” Conner nói… leo lên tầng đi ngủ.

“Bà ấy đúng là bà tám, phải không?” Alex nói

“Chắc chắn là vậy,” cậu đáp. “Bà ấy dễ tính hẳn sau khi uống thứ nước đó.”

Alex dừng lại giữa cầu thang và quay lại nhìn người bảo mẫu đang ngủ say của chúng. “Đúng vậy, chắc là vậy…” Một kế hoạch nảy ra trong đầu cô.

Alex trở người trên giường suốt cả đêm bởi cơn ác mộng khủng khiếp chưa từng có. Cơn ác mộng bắt đầu với hình ảnh cũ đã liên tục xuất hiện trong giấc ngủ của cô hàng tháng qua; cô cùng anh trai cô vui vẻ chạy xuyên qua rừng cây và bị bắt ở ngoài căn lều của bà nội chúng. Tuy nhiên, lần này khi nhòm qua cửa sổ chúng không thấy bà nữa, mà là mẹ chúng. Mẹ đang khóc và thều thào, “Cứu mẹ!” nhiều lần cho tới khi Alex choàng dậy.

Alex rùng người, ướt đẫm mồ hôi, cô bắt đầu khóc. Cô biết đó không chỉ là mơ. Mẹ cô có thể đang trong tình cảnh vô cùng nguy hiểm hoặc có thể bị thương nặng.

Alex không thể cứ sống như thế này mãi. Cô cần biết chuyện gì đang diễn ra bằng mọi cách.

Sáng hôm sau, khi cả nhà đều đã thức giấc, Alex xuống lầu và thấy anh Conner, Mẹ Ngỗng, và chú Bob đang ăn sáng.

“Chào buổi sáng,” chú Bob nói. “Con ngủ có ngon không?”

“Không được ngon giấc lắm,” Alex đáp.

“Nghe có vẻ chúng ta đã trải qua những đêm giống nhau,” Conner nói, nhìn cô với những quầng thâm quanh mắt.

“Để ta lấy cho con một ít ngũ cốc,” Mẹ Ngỗng nói. Bà vào phòng bếp và đổ sữa, ngũ cốc từ hộp Yến mạch Mẹ Ngỗng. Hình ảnh minh họa trên hộp là Mẹ Ngỗng đang cười hạnh phúc.

Bà bày tô ngũ cốc trước mặt Alex. “Yến mạch ngỗng ư?” Alex nói. “Con có được phép hỏi không?”

“Đừng có đánh giá ta,” Mẹ Ngỗng nói. “Ta ghét những mô tả về ta ở thế giới này—thường hay hạ thấp ta. Nhưng ta đã thử mở rộng lòng mình với loại ngũ cốc này khi mở nó ra, và từ đó trở đi ta đã nghiện món này.”

Alex nhún vai và ăn một miếng—nó không tệ tới một nửa.

“Mẹ Ngỗng đang giải thích với chú Bob về thế giới cổ tích,” Conner nói.

“Những chuyện tuyệt cú mèo,” chú Bob nói. Chú háo hức tiếp tục cuộc trò chuyện giữa họ. “Nếu tôi có nói gì sai thì mong bà sửa lại, nhưng bà và những vị tiên khác đã chu du giữa hai thế giới hàng trăm năm để kể những câu chuyện cho trẻ em ư?”

“Bí mật vàng của tụi ta đó,” Mẹ Ngỗng đáp.

“Vậy chắc bà đã hàng nghìn tuổi rồi,” chú Bob nói.

Mẹ Ngỗng lườm chú. “Đừng có vội kết luận vậy chứ, chàng trai,” bà nói. “Đừng hiểu nhầm ta, ta tuy già nhưng không tới mức anh nghĩ. Thời gian ở thế giới này trôi qua nhanh hơn so với ở thế giới của bọn ta. Loài người các anh đã có nhiều kỷ nguyên khác nhau như: thời kỳ Trung cổ, thời kỳ Phục Hưng, thời kỳ Khai sáng, thời kỳ Công nghiệp và giờ thì là thời kỳ Hiện đại… Còn bọn ta chỉ có khoảng ba thời kỳ, theo ta nhớ.”

“Và đó là những thời kỳ gì ạ?” Alex hỏi, thích thú với việc học lịch sử của thế giới cổ tích.

“Để ta nghĩ đã,” Mẹ Ngỗng nói. “Bọn ta có kỷ nguyên Rồng, kỷ nguyên Phép thuật, và giờ đang là kỷ nguyên Vàng. Chà, đã từng là kỷ nguyên Vàng cho tới khi tất cả những chuyện này xảy ra.”

“Kỷ nguyên Rồng?” Conner hỏi lại với vẻ hứng khởi. “Ý bà là đã từng có rồng ở thế giới cổ tích?”

“Vô số luôn,” Mẹ Ngỗng nói. “Một mớ hỗn độn! Thảm họa và thịt nướng liên miên! Giờ thì chúng đã tiệt chủng, giống như khủng long ở đây vậy.”

“Vậy bà đã bao giờ nhìn thấy một con chưa?” Conner hỏi.

“Ta đã từng vật nhau với chúng đấy chứ, rất lâu trước khi ta học phép thuật và trở thành người kể chuyện,” Mẹ Ngỗng nói với một nụ cười khoe khoang.

Conner liếc bà một cái rồi nói. “Bà đang đùa con đúng không?”

Mẹ Ngỗng sắn tay áo lên và chỉ cho Conner thấy một vết cháy lớn trên cẳng tay. “Vết cháy này không phải do nấu nướng đâu, cậu bé,” bà nói.

Conner há mồm nhìn bà. Cậu chưa bao giờ thấy ấn tượng như vậy bởi ai đó trong cả đời cậu, và câu chuyện Mẹ Ngỗng đáng để cậu ấn tượng.

“Bà đã tới đây vào thời đại Trung cổ và Phục hưng ạ?” Alex hỏi. “Chắc hẳn bà đã đi rất nhiều nơi và gặp gỡ rất nhiều người!”

“Cô bé, ta tới đây từ thời Phục hưng,” Mẹ Ngỗng nói, và có vẻ như bà vừa khai mạc một bữa tiệc trà. Căp song sinh cảm thấy chúng đang được chỉ đường.

“Đúng là vậy mà!” Mẹ Ngỗng nói. “Không chỉ có ta mà còn bà các con, Rosette, Skylene, và Violetta. Thế giới loài người buồn chán tới nỗi một đêm nọ ta đã tổ chức một bữa tiệc lớn. Một khoảng thời gian tuyệt vời. Điều tiếp theo ta biết là vài thập kỷ sau bọn ta quay lại nơi này và cả Châu Âu đang bắt chước bọn ta.”

“Bà con cũng trở lại chứ?” Conner hỏi.

“Ồ, có chứ,” Mẹ Ngỗng nói. “Bà ấy vui vẻ hơn rất nhiều. Sau khi có ba các con, bà ấy trở nên rất hiền dịu. Đó là lý do bà ấy được gọi là Mẹ tiên đỡ đầu—do luôn tốt bụng và quan tâm tới mọi người.”

Alex và Conner nhìn nhau. Tuy chúng giận bà nội, chúng vẫn luôn ngạc nhiên về bà.

“Mọi người cũng biết,” Mẹ Ngỗng nói tiếp, “Leonardo da Vinci và ta đã có đôi chút cảm nắng nhau.”

Alex há hốc mồm. “Con không tin! Bà đang bịa chuyện!”

Mẹ Ngỗng đảo mắt nhìn thẳng vào Alex, nghiêm túc hết mức có thể. “Vậy con nghĩ vì sao ông ấy thử tạo máy bay? Ông ấy đã thử đuổi kịp Lester và ta. Này, Lester, nói cho lũ nhóc này biết ta đã hẹn hò với Leonardo đi! Chúng không tin ta!

Lester xuất hiện ở cửa sổ phòng bếp. Nó gật đầu, xác nhận thông tin đó với cặp song sinh. Chúng vô cùng kinh ngạc.

“Tất nhiên, lúc đó ta không nói tên mình là Mẹ Ngỗng,” bà nói. “Bí danh của ta lúc đó là Mona Lisa.”

« Bà là Mona Lisa sao ? » Conner hỏi

Bức tranh nổi tiếng đó á?” Alex hỏi.

“Sao tụi trẻ cứ luôn nghĩ người khác lừa chúng thế nhỉ? Ta chẳng có lý do gì mà nói dối hai đứa cả,” Mẹ Ngỗng nói. “Leo, ta hay gọi ông ấy như vậy, hay làm ta cười. Ông ấy đã vẽ lại ta lúc đó.”

Alex và Conner nhìn bà, miệng há to. Chúng không biết nên tin vào điều gì.

“Sao bà lại có bí danh?” Conner hỏi.

“Ta đã nói rồi, ta có vài kẻ thù!” Mẹ Ngỗng nói. «Ta cũng có một vài cái tên khác nhau… Guinevere, Mona Lisa, Lady Godiva, Goose Flu… tất cả đều là bí danh của ta. Nhưng giờ ta chỉ đơn giản là Mẹ Ngỗng. Cái tên đó hợp với ta nhất. »

Chú Bob cũng hoang mang như cặp song sinh. Chú ngồi đó, một con người của giáo dục và khoa học, dần mất niềm tin vào mọi thứ mà chú nghĩ là mình biết rõ trong lòng bàn tay.

“Vậy là bà và các vị tiên khác truyền bá những câu chuyện cổ tích giống nhau trong suốt thời gian qua ư?” chú Bob hỏi

“Bọn ta chỉ kể những câu chuyện có thật,” Mẹ Ngỗng nói. “Những sự việc xảy ra gần đây ở thế giới bọn ta có tầm ảnh hưởng lớn nhất ở thế giới này—những truyện như Người đẹp ngủ trong rừng, Bạch Tuyết, Lọ Lem,…-- đó là lý do bọn ta gọi đó là Kỷ nguyên Vàng. Không may là thế giới này càng phát triển càng vượt xa thế giới của bọn ta. Bọn ta sợ rằng những câu chuyện của mình sẽ biến mất theo thời gian, vì vậy bọn ta đã thu nhận thêm một vài người ở thế giới này để giúp mình.”

“Giống như anh em nhà Grimm sao?” chú Bob hỏi, bắt đầu hiểu những gì mình đang nghe.

“Anh em nhà Grimm, Hans Christian Andersen, Walt Disney…” Mẹ Ngỗng liệt kê. “Nhưng ngày nay bọn ta đã ngừng việc thu nhận đó và tự mình làm hết tất cả. Không còn cách biệt thời gian nữa nên bọn ta cũng chẳng còn gì để lo lắng. Và mọi thứ ở thế giới cổ tích cũng trở nên yên bình sau khi Hội đồng Hạnh Phúc Mãi về sau ra đời, thế nên bọn ta cần có việc gì đó để làm.”

“Hội đồng Hạnh phúc Mãi về sau?” chú Bob hỏi.

“Giống như Liên Hợp Quốc của chúng ta vậy,” Alex trả lời. “Tất cả các đức vua và nữ hoàng đều kí kết một hiệp định duy trì hòa bình.”

“Tất cả các vị vua, nữ hoàng, Mẹ tiên đỡ đầu, Hội đồng Tiên, và ta cùng lập lên hội đồng đó. Bọn ta kiểm soát việc thực hiện bản hiệp định đã được kí kết,” Mẹ Ngỗng nói. “Bản hiệp định thật sự đã rất hiệu quả. Thế giới bọn ta đã khá thanh bình… ừm, tính cho tới hôm nay.”

Mẹ Ngỗng nhìn cặp song sinh—bà đã được dặn là không được tiết lộ thông tin về tình cảnh hiện thời.

Chú Bob gật đầu nhẹ. “Tôi nghĩ mình bắt đầu hiểu mọi chuyện rồi,” chú nói. “Chỉ trừ một việc: bà nói rằng đã từng có sự khác biệt về thời gian giữa hai thế giới? Vậy chuyện gì đã xảy ra?”

Mẹ Ngỗng chỉ cặp song sinh. “Hai bé nhóc này xuất hiện,” bà cười. “Chúng là những đứa trẻ đầu tiên của cả hai thế giới và bằng cách nào đó đã liên kết hai thế giới lại. Phép màu luôn diễn ra theo những cách thần bí, luôn luôn là thế.”

Chú Bob nhìn qua cặp song sinh, vẻ ấn tưởng xuất hiện trên mặt chú.

“Tụi con là những nhân vật quan trọng vậy đấy,” Conner nói.

Chú Bob mỉm cười với cậu. “Chà, các con nghĩ là mình đã biết ai đó, đúng không?” chú nháy mắt.

Chú Bob phải đi làm nên cặp song sinh lại bắt đầu một ngày rầu rĩ quanh quẩn trong nhà cùng những nỗi lo duy nhất là tự giúp bản thân khuây khỏa. Chúng đã rất mệt mỏi với những mối quan tâm cũ luôn bám riết tâm trí chúng.

Hai ngày sau không căng thẳng như tuần lễ trước. Mẹ Ngỗng không nghiêm khắc như tiên Xanthous, cặp song sinh cảm thấy thoải mái hơn nhiều. Những người lính phải đánh thức bà mỗi lần bà thiếp đi để nhắc bà về việc “đổi ca canh gác của những bức tượng người chú lùn.”

Tinh thần Alex đã khá hơn nhờ việc nhìn thấy Conner gần gũi với Mẹ Ngỗng. Cả hai người họ bỗng trở nên thân tới mức không thể tách rời. Ban ngày họ ngồi cạnh cửa sổ nhìn ra phía trước ngôi nhà và bày trò trêu người đưa thư (Mẹ Ngỗng vẩy một bên tai của bà dịch chuyển hòm thư bất kì lúc nào người đưa thư quay lưng đi). Sau bữa tối, nếu họ không xem đấu vật chuyên nghiệp thì Mẹ Ngỗng và Conner sẽ chơi bài với những người lính. Bà ấy thậm chí còn dạy cậu cách giấu bài trong cánh tay áo.

Alex không đặt anh trai cô vào kế hoạch mà cô đã lập ra trong đầu nhiều ngày nay. Cô cảm thấy tội lỗi khi một mình phá vỡ mong muốn của bà nội cô; cô không muốn kéo anh cô vào kế hoạch này.

Một đêm nọ, Conner đi ngủ sớm trong khi Alex vẫn thức, để mắt tới Mẹ Ngỗng. Bà đang ngồi ở bàn ăn, tay cần chiếc bình nọ, hồi tưởng lại thế giới cổ tích cùng những người lính. Alex có thể nói rằng bà ấy có hơi đùa quá trớn, vì mắt bà đã đờ ra và bà đang nói líu lưỡi và chơi vần trong câu chữ của bà.

Lúc ta còn trẻ không có nhiều vui vẻ--từng chà mình với ba người đàn ông trong bồn tắm!” Mẹ Ngỗng cười và chuyền cái bình của bà quanh bàn. Mỗi người lính uống một ngụm dài và theo thời gian mắt họ bắt đầu trĩu xuống.

“Mẹ Ngỗng, liệu tôi có thể thú nhận vài điều với Mẹ không?” một người lính buồn bã nói. “Tôi từng là một trong những binh lính của đức vua, người đã cố đặt trả Humpty Dumpty lại với nhau. Tôi biết Mẹ rất gần gũi với người đó; tôi rất buồn vì không thể giúp ngài ấy.”

Đôi mắt Mẹ Ngỗng tràn lệ khi bà nhớ lại người bạn quá cố của bà và cái đêm tai nạn thảm khốc xảy ra với nó.

“Humpty và ta đã ngồi trên bức tường đó, Humpty và ta đã có một buổi khiêu vũ,” bà nói. “Humpty đã ngã xuống, ngay tại đó và lúc đó, bởi Humpty tội nghiệp đã không thể giữ chặt ly rượu gin của nó. Ta rất nhớ quả trứng đó!”

Mẹ Ngỗng vùi mặt vào lòng bàn tay và khóc vài phút.

Một lúc sau, bà tỉnh lại, nhận lại cái bình của bà, và ngồi xuống chiếc ghế bập bênh cạnh lò sưởi.

Bà búng ngón tay và một ngọn lửa hiện ra trong lò. Bà định tu thêm ngụm rượu cuối cùng nhưng thất vọng khi biết rằng họ đã uống cạn bình. Đây chính là khoảnh khắc mà Alex đợi suốt từ nãy tới giờ.

Cô lẻn vào bếp và lấy ra chai sâm panh mà chú Bob đã mang tới vào buổi tối cầu hôn nọ. Alex hy vọng cô có thể dùng nó một cách khôn ngoan vào tối nay.

Mẹ Ngỗng bắt đầu thiu thiu thì giật mình bởi một tiếng pốp. Alex đã mở chai sâm panh ngay phía sau bà.

“Bà có muốn rót đầy bình không?” Alex hỏi và chỉ cái bình rỗng mà Mẹ Ngỗng đang giữ chặt trong tay.

“Ồ, con thật tốt bụng,” Mẹ Ngỗng nói, hơi lúng túng. Bà giơ chiếc bình của bà lên và Alex đổ đầy lên tận miệng bình và để chai sâm panh sang một bên.

“Hơi quá tay rồi đấy, cô bé của ta,” Mẹ Ngỗng nói rồi nhấm thử một ngụm. “Thứ này ngon đấy. Con có chắc thứ này không phải để dành cho sự kiện đặc biệt nào đó chứ?”

“Chú Bob định dùng nó khi cầu hôn mẹ con, nhưng dự định đó thành công cốc khi mẹ con đã bị bắt cóc,” Alex từ tốn nói rồi ngồi xuống sàn nhà cạnh chiếc ghế của Mẹ Ngỗng.

Những đứa bé ngoan như hai anh em con lẽ ra không nên phải trải qua những chuyện này,” Mẹ Ngỗng buồn bã nói và trìu mến vuốt tóc Alex. Mắt bà buồn, mỗi lần nhấp một ngụm sâm panh lại nặng trĩu và đờ đẫn hơn. Alex gần đạt được mục đích của mình—gần được.

“Conner và con đã cùng nhau trải qua nhiều chuyện, và tụi con luôn có khả năng giải quyết mọi chuyện xảy ra với mình,” Alex nói. “Thế nên bà có thể hiểu lý do vì sao tụi con lại giận dữ khi không biết chuyện gì hết. Dù cho tụi con có lớn nhanh đến thế nào; mọi người vẫn đối xử với tụi con như con nít vậy.”

Một tiếng gáy to phát ra từ Mẹ Ngỗng; bà đã thiếp hẳn. Alex vỗ người bà cho tới khi bà tình lại.

Hừm?” Mẹ Ngỗng nói, mở một con mắt. “Con đang nói gì vậy nhỉ, cô bé?”

Alex nghĩ thật nhanh. Mẹ Ngỗng giờ đang ở trạng thái nửa tỉnh nửa mê, và Alex muốn tận dụng điều đó.

“Bà vừa nói với con về việc mọi chuyện tệ như thế nào ở thế giới cổ tích,” Alex nói, gật đầu tỏ vẻ thật thà.

Đầu Mẹ Ngỗng gật lên gật xuống. “Mọi chuyện còn tệ hơn thế--dây leo và bụi gai vẫn bao phủ vùng đất phía Đông,” bà nói và nhìn quanh trong tình trạng mê mụ. “Ta nghĩ mình đã uống quá nhiều rượu, căn phòng ngày đang quay tròn thì phải—”

“Chuyện đó thật tệ,” Alex nói và lập tức rót đầy chiếc bình của Mẹ Ngỗng. “Nhưng chắc chắn là Hội đồng Hạnh phúc Mãi về sau có thể giải quyết đám dây leo và bụi gai đó chứ ạ?”

Alex đẩy chiếc bình về phía bà. Mẹ Ngỗng uống thêm một ngụm nữa.

“Dây leo, bụi gai không phải là vấn đề-- vấn đề là ma thuật phía sau chúng quá mạnh,” Mẹ Ngỗng nói. “Họ đã thử tìm bà ta trước khi bà ta vùng dậy—nhưng đã muộn và may mắn cũng chẳng còn.” Đầu bà gục xuống ngực và bà lại thiếp đi. Alex lay bà dạy. Lần này khó hơn lần trước.

“Xin lỗi con, ta không cố ý ngủ đi giữa lúc con đang nói,” Mẹ Ngỗng nói. Bà hé mắt vẻ mệt mỏi. “Con đang nói gì thế nhỉ?”

Alex nghĩ nhanh. “Con đang nói là mình mong bà sẽ tìm thấy bà ta, cho dù bà ta là ai đi nữa,” cô nói.

Mẹ Ngỗng gật đầu. Bà khẽ chạm vào một bên má của Alex. “Đừng phiền muộn với chuyện đó nữa—họ sẽ nhanh chóng tìm ra Ezmia thôi,” Mẹ Ngỗng nói.

Alex chưa bao giờ nghe thấy cái tên đó trước đây. “Ezmia?” cô hỏi. “Ai là Ezmia vậy bà?”

Mắt Mẹ Ngỗng mở to gấp đôi. Nếu không quá say xỉn thì bà đã bật thẳng lưng ngồi dậy rồi. Alex biết đó là thông tin được yêu cầu không được tiết lộ cho anh em cô biết.

“Ồ cô bé,” Mẹ Ngỗng nấc cục. “Đừng nói với bà cháu những gì ta vừa nói.”

“Cháu thề là sẽ không nói ra,” Alex nói. Mẹ Ngỗng sụp người xuống thở phào. “Miễn là bà nói cho cháu biết bà ấy là ai,” Alex nói thêm.

Mẹ Ngỗng lại căng thẳng tới mức bà có thể với tất cả lượng rượu trong người. “Ta không thể. Ta đã hứa với bà con là ta sẽ không hé ra một từ nào!”

“Vậy thì bà đừng nói; mà hãy gieo vần,” Alex nói. Cô đứng dậy và nhìn vào mắt Mẹ Ngỗng, khao khát tìm hiểu tin tức hơn bao giờ hết. “Đằng nào thì con cũng sẽ biết. Chỉ là vấn đề thời gian thôi—vì vậy làm ơn hãy nói cho con biết, ai là Ezmia?”

Mẹ Ngỗng nhìn quanh nhà để chắc chắn rằng không có ai khác ngoài họ rồi tu thêm rượu. Bà né Alex mà nhìn vào đống lửa, không muốn nhìn vào mắt Alex khi nói ra thông tin mà bà đã thề không được nói ra.

Nhiều năm qua cả thế giới cổ tích nghĩ rằng bà ta đã chết—cho dù chết ở đâu thì không ai biết. Trong bóng tối bà ta yên nghỉ, thầm lặng lên kế, sự phẫn nộ đầy hận thù sắp bùng nổ. Ngự trị bởi cơn thịnh nộ và đau khổ hàng thế kỉ, một nỗi sợ kìm nén sẽ chóng thành hiện thực ngày mai. Sau khi thất bại với lời nguyền giết chết một nàng công chúa, giờ bà ta nhắm vào hơi thở cuối cùng của thế giới này. ‘Hạnh phúc mãi về sau’ sẽ chỉ là quá khứ--bởi Ác tiên cuối cùng đã trở lại…”

Mẹ Ngỗng nhắm mắt lại, lần này không vì mệt mỏi nữa mà là do hổ thẹn. Alex chăm chú nghe từng từ.

“Ác tiên ư?” Alex hỏi lại, xử lý thông tin vừa nghe được. “Vị Ác tiên, người đã muốn giết Người đẹp ngủ trong rừng, đã trở lại ư?”

“Đúng thế,” Mẹ Ngỗng nói. “Tên bà ta là Ezmia, và bà ta đang giam giữ mẹ cháu…”

Cằm bà gục xuống ngực mà bà rơi vào giấc ngủ sâu mà Alex chưa từng thấy. Tiếng gáy của bà vọng khắp căn nhà yên tĩnh.

Alex đảo mắt quanh phòng. Tim cô đang đập thình thịch. Cô cố điều hòa lại hơi thở, bởi những gì cô vừa nghe như ngọn gió đập vào người cô như thể não cô đang bật ở chế độ tự lái. Lập tức cô chạy lên lầu và vào phòng mình. Cô đổ hết sách vở ra khỏi ba lô và chất nhiều quần áo hết mức có thể. Cô chùm một chiếc áo len qua đầu và xỏ đôi giày chạy.

Alex chạy xuống nhà rồi vào phòng bếp. Cô lấy tất cả đồ ăn và những vật cần thiết cho chuyến đi dài của mình: dao, diêm, mấy chai nước, v.v. Cô cũng chẳng thèm cẩn thận khi đi ngang qua mấy người lính đang say mèm ở chỗ bàn ăn. Cho dù có bị bắt quả tang, cô cũng đã quyết sẽ không để ai hay bất kì điều gì ngăn cản cô.

Cô đi ra cửa và lấy xe đạp ra khỏi hành lang, dắt ra phố. Cô nhìn lại những bức tượng người lùn, trong khi họ vẫn đang hoàn toàn bất động thì cô biết những người lính trong nhà sẽ chẳng làm được gì.

“Con biết các chú không thể ngăn mình bởi con đâu có gặp nguy hiểm gì,” Alex nói với những bức tượng. “Cho dù có như vậy đi nữa,” cô nói nhỏ.

Đạp nhanh hết sức vào màn đêm, cô biết chẳng bao lâu nữa Mẹ Ngỗng hay một người lính nào đó sẽ đuổi theo cô. Alex không có kế hoạch dự phòng, như cô biết mình sẽ đi đâu; cô sẽ tới căn lều của bà nội trên núi.

Những chuyến thăm bà nội của gia đình cô luôn mất hai tiếng đồng hồ đi lại bằng ô tô, nên cô biết đạp xe sẽ mất nhiều thời gian hơn. Nhưng nếu có nơi nào đó mà cô có thể tìm thấy thứ gì đó của bà nội để “khởi động”, một lối đi vào thế giới cổ tích, thì căn lều của bà nội chính là nơi đó.

Alex nhìn lại nhà mình một lần nữa trước khi nó biến mất hẳn. Một giọng nói nhỏ vang lên trong đầu cô nói rằng sẽ mất một thời gian dài để có thể nhìn lại nó, nhưng cô chào đón cảm giác đó. Cô chẳng quan tâm bà nội cô muốn gì; Alex sẽ tìm cách trở lại Xứ sở những câu chuyện và cứu mẹ cô—cho dù có phải mất mạng đi nữa.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro