Thuỷ điện Hoà Bình

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

(VTC News) - Nhiều người tỏ ra lo ngại, khi trên sông Đà có tới 3 thủy điện rất lớn, mỗi cái gấp cả chục lần thủy điện ở Lào, nếu đập có vấn đề, thì sẽ là một thảm họa không thể tưởng tượng nổi.


Kỳ 1: Chinh phục dòng sông 'ma-cà-rồng' và con đập Hòa Bình kỳ vĩ
Việc đập thủy điện ở Lào vỡ, khiến cả trăm người chết và mất tích, gây chấn động dư luận. Nhiều người tỏ ra lo ngại, khi trên sông Đà có tới 3 thủy điện rất lớn, mỗi cái gấp cả chục lần thủy điện ở Lào, nếu đập có vấn đề, thì sẽ là một thảm họa không thể tưởng tượng nổi. VTC News đăng tải bài viết, giải mã những câu chuyện của những người làm địa chất, để bạn đọc thấy được, sự kỳ công như thế nào, để có được đập thủy điện, hơn hết là sự tin tưởng an toàn tuyệt đối vào những công trình kỳ vĩ lớn nhất Đông Nam Á trên dòng sông Đà.
Dòng sông cổ
Với những nhà báo mê Tây Bắc, dòng sông Đà như một sơn nữ đầy bí ẩn và quyến rũ.
Tôi đã có không biết bao nhiêu chuyến lang bang ngược sông Đà những ngày thủy điện Sơn La xây dựng. Đến những cánh rừng, ôm gốc cây cổ thụ sẽ chìm dưới lòng hồ, theo dấu chân hổ và sói đỏ hung dữ, cuốc bộ ngày trời để sờ tận tay những tảng đá có hình khắc trơ ra từ lòng sông mùa nước cạn ở bãi đá Pá Màng.
Tôi đã mê mải trong những hang động người xưa, nằm võng ngủ lều với các nhà khoa học để xem họ đào bới thềm sông cổ tìm di vật.
Tôi đã hết ngồi lại nằm mấy ngày trời trên mũi con thuyền máy mà nhìn từ trên đỉnh núi xuống như chiếc lá lúa nổi nênh giữa Đà giang mênh mang cuồn cuộn, ngược sông Đà, để được trải nghiệm thực tế từ những câu chữ bóng bẩy trong ký sự của cụ Nguyễn Tuân.
Tôi đã mải miết bên con sông mỗi năm vài lần, bởi suy nghĩ mai này, dòng Đà giang sẽ vĩnh viễn biến mất dưới dòng nước bạc.
Để rồi, đứng bên công trình thủy điện Sơn La, mới thấy sự kỳ vĩ của trí tuệ con người. Dòng sông dữ dằn ấy đã bị con người chinh phục, biến sức mạnh của nó thành cơm gạo nuôi con người.
Nhưng ai là người đã chinh phục con sông từng được giới khoa học gọi là "ma-cà-rồng" này? Chúng ta thường nghĩ đến những máy móc hiện đại, những giàn khoan hiện đại, những máy trộn bê tông, những kỹ sư xây dựng, kiến trúc cừ khôi... Nhưng những người thực sự đặt nền móng cho việc chinh phục con sông này, thì ít người biết đến. Họ chính là những kỹ sư địa chất. Họ làm việc âm thầm từ cả trăm năm nay rồi. Họ ăn rừng ngủ thác, hiểu sông Đà như mạch máu của mình.
Tôi đã kỳ công tìm gặp họ, để một lần nữa được hiểu cặn kẽ nền móng con sông, mà nói như các kỹ sư địa chất, thì hiểu rõ "lòng dạ" sông Đà.
Trong căn phòng ở cuối hành lang tầng hai của một dãy nhà xây dựng từ thời Pháp, nép mình dưới những tán cây cổ thụ trên phố Phạm Ngũ Lão, có ông già người thấp đậm, bộ râu quai nón muối tiêu phủ kín khuôn mặt, ngày ngày đạp xe lọ mọ đến làm những công việc thầm lặng: Chỉnh sửa những công trình khoa học về ngành địa chất, cổ sinh cho các nhà khoa học và nghiên cứu những mẫu đất đá hóa thạch từ những loài động thực vật có cách nay hàng trăm triệu năm, từ khi sự sống mới khởi thủy.


Ông già giản dị đó là GS-TSKH Đặng Vũ Khúc, người đã dành cả tuổi thanh xuân nghiên cứu địa chất sông Đà.
TSKH Đặng Vũ Khúc triết lý cái tầm quan trọng của ngành địa chất: "Do có những đặc điểm địa chất khác nhau mà có nước hầu như không có khoáng sản gì đáng kể, ví dụ như Nhật Bản, nhưng có nước thì có những mỏ khoáng sản thực quý hiếm, như một số nước ở châu Phi có mỏ kim cương, mỏ vàng lớn.
Nhung chuyen chua tung biet dang sau dap thuy dien Hoa Binh va Son La  hinh anh 1
TS. Đặng Vũ Khúc lấy mẫu vật ở thượng nguồn sông Đà.
Vì vậy, ngay sau ngày đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Bác Hồ đã thành lập ngành địa chất, để xem mảnh đất dưới chân mình có gì, kẻo lại sống trên vàng mà cứ nghèo đói".
Tuy nhiên, ngày đó nước mình còn nghèo, chiến tranh loạn lạc, khoa học kỹ thuật lạc hậu nên mặc dù ngành Địa chất được thành lập từ năm 1945, song thực sự chỉ hoạt động sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc.
Năm 1954, khi Chính phủ trở về Hà Nội, Cục Địa chất mới được tách ra từ Bộ Công thương và trở thành Tổng cục Địa chất.
Năm 1960, lớp kỹ sư địa chất đầu tiên mới ra trường và từ đó trở đi, trường Đại học Bách khoa Hà Nội đều đặn cung cấp đội ngũ kỹ sư địa chất cho ngành địa chất nước ta.
Năm 1959, Tổng cục Địa chất có chủ trương tiến hành điều tra địa chất và tài nguyên khoáng sản trên địa bàn toàn miền Bắc ở tỷ lệ 1:50.000.
Do các nhà địa chất nước ta hồi đó chưa có kinh nghiệm gì về công việc này, Tổng cục phải mời một đoàn chuyên gia Liên Xô gồm 6 người sang giúp ta. Công việc đầu tiên của ngành địa chất là lập bản đồ địa chất trên toàn lãnh thổ Việt Nam.
Vùng Tây Bắc do một đội đảm nhiệm, chuyên gia là Đovjikov A.E, đội trưởng là Bùi Phú Mỹ, các kỹ sư trong đội có Nguyễn Vĩnh, Vũ Khúc, Nguyễn Xuân Bao.
Đó là những nhà địa chất đầu tiên của ngành địa chất Việt Nam lọ mọ đi dọc sông Đà trong suốt thập kỷ 60, từ ngã ba Việt Trì lên đến Mường Tè (Lai Châu) để nghiên cứu địa chất, vẽ tấm bản đồ địa chất Tây Bắc đầu tiên của nước ta.
Công việc của họ là đi dọc thềm sông Đà và các con suối để nghiên cứu đá, sỏi xem đó là những loại đá gì? Tính chất của nó ra sao? Có chứa hóa thạch gì không? Từ đó nhìn ra được lịch sử hình thành của dòng sông Đà, tính chất địa chất của con sông Đà và cả vùng Tây Bắc.


Hồi đó, lứa kỹ sư đầu tiên của ngành địa chất nước ta đi khảo sát dọc sông Đà, lập bản đồ địa chất không phải để làm các đập thủy điện.
Nhung chuyen chua tung biet dang sau dap thuy dien Hoa Binh va Son La  hinh anh 2
TS. Đặng Vũ Khúc và các mẫu vật hóa thạch lấy về từ Tây Bắc.
Tuy nhiên, những tấm bản đồ địa chất đầu tiên đó là tài liệu rất cơ bản, mà dựa vào đó lứa kỹ sư địa chất thế hệ sau khoan khảo sát, lấy mẫu tiến hành phân tích, tạo ra những tài liệu chuẩn xác, làm cơ sở dữ liệu cho việc tiến hành xây dựng thủy điện.
Từ những năm tháng lăn lộn dọc sông Đà, lặn ngụp dưới đáy sông, trèo lên tận đỉnh núi nghiên cứu địa chất, TSKH Đặng Vũ Khúc phân tích: "Sông Đà chảy qua vùng đá gốc cổ với nhiều cấu tạo địa chất, nhiều tầng đất đá có tuổi khác nhau.
Ở vùng Lai Châu, Điện Biên nó chảy qua đá biến chất thuộc đại Cổ sinh có tuổi khoảng 460 triệu năm. Dưới Sơn La, nó chảy qua những vùng đá núi lửa có tuổi khoảng 260 triệu năm và những vùng đá vôi Trung sinh có tuổi khoảng 240 triệu năm.
Ở những vùng này, nền đá cứng ép lòng sông nhỏ lại, hai bên sông vách đá cao vút, con sông trở nên hung dữ, ầm ào lao đi như tên bắn, thuyền bè rất khó ngược xuôi. Chính vì độ dốc giữa thượng nguồn và hạ lưu lớn, dòng sông nhỏ hẹp, có nhiều gềnh thác nên nó được coi là con sông có tiềm năng thủy lực rất lớn để xây dựng các công trình thủy điện...".
"Ma-cà-rồng' Tây Bắc
Phải lọ mọ mãi tôi mới tìm thấy tòa nhà cũ kỹ ở quận Hà Đông (Hà Nội). Ấy là Xí nghiệp khảo sát xây dựng điện I. Tuy nhiên, trong tòa nhà ấy chỉ có mấy chị em văn phòng.
Họ bảo, muốn tìm anh em kỹ sư địa chất thì chỉ có cách ngược sông Đà mà tìm. Nhiều lần liên lạc không có sóng, tôi được anh em kỹ sư thủy điện Sơn La chỉ lên thủy điện Huội Quảng.
Con đường xuyên rừng gập gềnh đá hộc dẫn đến một quán lá dựng tạm chênh vênh bên vực thẳm. Quán chỉ có các món liên quan đến sơn dương.
Vợ chồng chủ quán người Hưng Yên, hai chục năm nay cứ "bám càng" mấy anh thủy điện. Thủy điện khởi công ở chỗ nào, vợ chồng này dỡ quán chuyển lên đó.
Tôi hỏi về các kỹ sư địa chất, chị chủ quán chỉ một nhóm mấy ông gầy gò, tóc tai bờm xờm, ăn mặc giản dị ngồi uống rượu suông ở góc quán nhậu dã chiến. Chị chủ quán bảo: "Đó là mấy ông kỹ sư địa chất, suốt ngày chỉ lần mò chọc ngoáy ở bờ sông".
Nhung chuyen chua tung biet dang sau dap thuy dien Hoa Binh va Son La  hinh anh 3
Đập thủy điện Sơn La.
Trong nhóm "sơn tràng" toàn là những kỹ sư địa chất kỳ cựu. Anh Huỳnh Phong, trông như bác nông dân, hóa ra là Phó giám đốc Xí nghiệp khảo sát xây dựng điện I.
Những kỹ sư địa chất như Bùi Khôi Hùng, Nhân Văn Tuân, Huỳnh Phong, Nguyễn Văn Nhân... ngồi trên căn nhà sàn uống rượu suông từ chiều đến tận đêm trăng sơn cước ấy không phải là lớp người đầu tiên khai phá sông Đà, song cũng có thể nói là những người đã hiến trọn tuổi xuân cho những ghềnh thác, cho con sông hung dữ mà cụ Nguyễn Tuân gọi là con ngựa bất kham.


Lời cụ Tuân nói thì chẳng phải đùa, bởi vì từ hồi thuộc Pháp, các nhà khoa học Pháp, những thiên tài hàng đầu thế giới về khai sơn phá thạch đã phải nghiêng mình kính nể trước tầng cuội sỏi dày 70 mét dưới đáy sông, trước những tầng đứt gãy ngầm (hiện tượng kast) nham nhở trong lòng đất và gọi nó là con sông "Ma-cà-rồng".
Rồi các bộ óc lớn của Trung Quốc, nơi xây dựng thủy điện Tam Hiệp lớn nhất thế giới, sau khi đã cuốc bộ dọc bờ sông cũng phải than rằng: "Con sông này quả khó trị".
Trước khi nghiên cứu sông Đà, những lớp kỹ sư này đều phải đọc lại lịch sử và những nghiên cứu của lớp người đi trước.
Kỹ sư địa chất Bùi Khôi Hùng, là người từng tham gia hầu hết các thủy điện ở nước ta đã phải lần mò trong đống tư liệu ít ỏi bằng tiếng Pháp để thấy được những bước chân khai sơn phá thạch đầu tiên của các bộ óc vĩ đại trị vì xứ Đông Dương một thời:
Những năm 30 của thế kỷ trước, nước ta còn chìm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp và còn chìm trong sự lạc hậu về khoa học, thì thực dân Pháp đã nung nấu tham vọng xây dựng một nhà máy thủy điện khổng lồ, lớn nhất châu Á trên sông Đà.
Mục đích là xây dựng hậu chiến Đông Dương vững mạnh, chuẩn bị nguồn lực để đối phó với đại chiến thế giới thứ hai có thể xảy ra (thực tế nó đã xảy ra).
Thực dân pháp đã giao nhiệm vụ cho J.Fomaget, lúc đó là giám đốc Sở địa chất Đông Dương tìm nơi xây dựng thuỷ điện. J.Fomaget đã kéo hàng chục nhà khoa học tài ba vào cuộc chiến với dòng sông Đà suốt từ Hòa Bình lên đến Sơn La, song vẫn không tìm được một nơi ưng ý để trị con sông hung dữ này.
Chưa chịu thất bại, J.Fomaget đã mời hãng Bachy, khi đó là một công ty lớn nhất Đông Dương, chuyên hoạt động trong lĩnh vực khoan dò địa chất cùng vào cuộc. Các kỹ sư kỳ cựu của hãng Bachy đã cắm dày đặc mũi khoan xuống lòng sông từ chỗ TP. Hòa Bình lên đến tận Suối Rút, Chợ Bờ, nhưng chỉ thấy những tầng cuội sỏi dày 30 đến 70 mét ở dưới lòng sông.
Với khoa học kỹ thuật thời đó, không thể xây dựng một con đập trên nền cuội sỏi dày như vậy mà vẫn đảm bảo an toàn cho hạ du. Dòng sông "Ma-cà-rồng" khuất phục các nhà địa chất kỳ cựu của Pháp.
Nhung chuyen chua tung biet dang sau dap thuy dien Hoa Binh va Son La  hinh anh 4
Hồ thủy điện Hòa Bình.
Có một kỹ sư địa chất đã cao hứng nói thế này về con sông Đà: "Nó mang bộ mặt thẫm đỏ, lao đi những bước hung hãn, đầy sự hăm họa tàn phá. Nó có 540 cây số chiều dài chảy qua nước ta. Thủy đầu chênh lệch 270m, dòng sông như chiếc máng xối khổng lồ đặt nghiêng, rót nước xuống vùng châu thổ. Những ngôi nhà chưa kịp chạy, những cây cổ thụ bám đất ngàn năm, những đứa trẻ chưa kịp lớn khôn, dòng sông cuốn đi hết.
Đêm mùa lũ, miền châu thổ thao thức, tiếng trống giục triền miên nơi điếm canh đê, những tấm lưng người còng đi vì vác đất. Sau lưng họ là những thảm lúa đang thì con gái, là vạn vạn những vườn cây, hàng triệu cư dân.
Năm 1971, huyện Chương Mỹ (Hà Tây cũ) đã phải nhận 2 tỷ mét khối nước (do lượng nước quá lớn từ sông Đà tống ra sông Hồng, làm vỡ đê sông Hồng) để cứu nguy cho cả vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng.
Trên dòng sông hung dữ ấy chỉ còn những chiếc thuyền, con người như những con bọ vó bám chặt lấy mặt sông kiếm củi, kiếm cái sống cho những ngày sau đó".
Chinh phục 'Ma-cà-rồng'
Sau mấy chục năm thất bại trong việc chinh phục sông Đà, đến đầu thập kỷ 40, để mong xác định sớm được nơi xây đập, Sở Thủy lợi Đông Dương đã mời ông Hoffet, lúc đó là một giáo sư đại học danh tiếng của châu Âu lên sông Đà nghiên cứu. Vị GS này ăn rừng ngủ thác cùng hàng chục chuyên gia địa chất, khảo sát dọc sông Đà và đã chọn khu vực Chợ Bờ (Hòa Bình). Tuy nhiên, công việc dang dở thì Nhật đảo chính Pháp.
Phát xít Nhật đã bắt ông khi ông đang cùng các thợ khoan làm việc trên khu vực Chợ Bờ, rồi thủ tiêu ông một cách bí mật. 20 năm sau, vợ ông Hoffet sang Việt Nam và phải mất nhiều ngày, nhờ nhiều người mới tìm thấy hài cốt ông ở mãi Yên Châu (Sơn La).
Sau ngày lập quốc, thì mọi việc nghiên cứu sông Đà của các kỹ sư người Pháp dừng lại hết. Chỉ có một số tư liệu rất ít ỏi nói về hành trình nghiên cứu địa chất sông Đà viết bằng tiếng Pháp còn lưu trữ rải rác trong các thư viện bên nước Pháp mà các nhà khoa học của ta tìm thấy sau này.
Hòa bình lập lại ở miền Bắc, nước ta đã thành lập Ủy ban trị thủy sông Hồng và vạch ra các tuyến ở Hòa Bình, Vạn Yên, Tạ Bú để các nhà địa chất tìm tòi, nghiên cứu xác định nơi xây dựng thủy điện.
Đến thập kỷ 60 của thế kỷ trước, các nhà khoa học địa chất của Việt Nam và Trung Quốc tiếp tục nghiên cứu địa chất sông Đà, nhưng cũng bất lực trước lớp sỏi cuội quá dày dưới đáy sông. Nếu xây dựng thủy điện thì phải bóc hết lớp sỏi cuội đó đi, trong khi đó, khoa học kỹ thuật thời đó chưa phát triển, máy móc ít, nên rất tốn kém và rốt cục biện pháp này không khả thi.
Sau khi đập thủy điện vĩ đại nhất thế giới được xây dựng thành công ở Ai Cập, bởi các chuyên gia Liên Xô, chính phủ đã mời các nhà khoa học sang Liên Xô nghiên cứu về sông Đà.
Lòng con sông ở Ai Cập có tầng sỏi cuội dày tới 200m, do đó, lớp sỏi dày vài chục mét ở sông Đà không thấm vào đâu so với trình độ kỹ thuật vượt bậc của khoa học Liên Xô.
Sau khi các chuyên gia Liên Xô giúp xây dựng xong thủy điện Thác Bà, thì triển khai thủy điện Hòa Bình. Bắt đầu từ năm 1971, hàng trăm kỹ sư, chuyên gia của hai nước đã đi dọc sông Đà, đặt mũi khoan chi chít để vẽ lại bản đồ địa chất lòng sông.
Và đập thủy điện Hòa Bình đã trở thành một công trình vĩ đại nhất nước ta về tiền của, công sức và cả máu xương con người. Công trình này cũng chính thức xác nhận khả năng kỳ diệu của con người trong việc chinh phục thiên nhiên. Và lần đầu tiên trong lịch sử, con sông mà cụ Nguyễn Tuân gọi là Ma-cà-rồng đã bị khuất phục.
Ngày nay, chúng ta dạo chơi trên hồ Hòa Bình, ngắm nhìn con đập hùng vĩ, nhưng ít người biết đến những bí ẩn về con đập này.
Để "trị" lớp sỏi cuội, phù sa, cát dày 50-70m dưới đáy sông, các nhà khoa học đã sử dụng kỹ thuật đập chống thấm. Lớp phù sa và cát bề mặt được bóc dỡ. Lớp sỏi cuội được xử lý bằng cách khoan phụt bê tông nhằm gia cố đến tận đá gốc. Kỹ thuật khoan phụt bê tông biến cả tầng sỏi cuội dày thành khối bê tông vững chắc.
Nghe thì có vẻ đơn giản vậy, nhưng đã phải huy động tới 6 vạn người, gồm các nhà khoa học, kỹ sư, công nhân cùng với các loại máy móc tối tân nhất thời bấy giờ và làm việc trong hơn 10 năm trời ròng rã mới hoàn thành công trình.
Và con đập vĩ đại nhất lịch sử Việt Nam đã được hoàn thành. Đập cao tới 128m, chiều rộng đáy tới 820m và chiều rộng đỉnh 20m. Chiều dài đỉnh đập là 640m.
Có một bí ẩn ít ai biết, ấy là đập Hòa Bình được làm bằng cả đá, bê tông và đất sét. Đó là một con đập mềm, có khả năng chống thấm, chống động đất rất tốt.
Điều ít ai biết nữa, đó là nhà máy thủy điện Hòa Bình nằm trong lòng núi. Đó thực sự là một kỳ công kỹ thuật, nhằm đối phó với chiến tranh.
Để làm được nhà máy ngầm, phải đào thủng núi, moi ra 1,2 triệu mét khối đá. Các nhà khoa học đã tạo ra hang ngầm có chiều cao 52m, rộng 22m và dài tới 280m.
Tại thủy điện hòa Bình, một vấn đề về địa chất vô cùng phức tạp mà các nhà khoa học, các kỹ sư địa chất phải dày tâm nghiên cứu, tìm biện pháp khắc phục, ấy là việc chống thấm núi đá vôi Trại Nhãn.
Nhung chuyen chua tung biet dang sau dap thuy dien Hoa Binh va Son La  hinh anh 5
Thủy điện Hòa Bình xả đáy. Ảnh Việt Hùng
Hồi kỹ sư Bùi Khôi Hùng cùng các kỹ sư địa chất khác khoan núi Trại Nhãn thì tự nhiên thấy tụt cần khoan. Xác định đây là dãy núi đá vôi có hiện tượng karst rõ rệt với rất nhiều hang động trong lòng núi nên buộc phải xử lý trước khi đắp đập thủy điện.
Để xử lý được hiện tượng này, phải đào hàng loạt hầm ngầm sâu vào lòng núi. Khi đào hầm vào mới phát hiện ra rất nhiều hang động có mái đá cao tới 20 mét.
Để tránh hiện tượng các khối bêtông bị sụt lún, biến mất trong lòng núi, phải làm đường ngầm vào lòng núi với chiều dài 1.508m, xử lý khoan phụt bêtông phía dưới đường ngầm, sau đó phá núi thành những khối rỗng hình thang rồi mới phụt bêtông vào.
Những khối bêtông hình thang sẽ đè lên nhau thành một bức tường vững chãi chạy dọc lòng núi, khó có thể sụt lún được nữa.
Với các nhà địa chất, các nhà khoa học trong ngành xây dựng thì đây là công trình đặc biệt nhất, duy nhất ở nước ta từ trước đến nay. Họ đã phải thi công biến vùng núi đá vôi có nhiều đứt gãy lớn, thông suốt thượng, hạ lưu với nhiều hang hốc thành một khối vững chắc.
Quả núi hai bên đập thủy điện Hòa Bình đã biến thành núi nửa nhân tạo, đảm bảo chống mất nước từ hồ xuống phía hạ lưu.
'Nếu đập Sơn La vỡ, chiếc xe tăng 40 tấn ở Sơn Tây sẽ bị thổi bay như lá vàng. Sau 30 phút, toàn đồng bằng Bắc Bộ chìm sâu 4-60m, cướp đi sinh mạng 15 triệu người'- phát biểu của Phó Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng, an ninh của Quốc hội ông Nguyễn Văn Khá năm 2002, khi dự án thủy điện Sơn La được đưa ra Quốc hội.
Phát biểu của ông Khá vẫn còn nguyên giá trị cảnh báo. Tuy nhiên, nếu hiểu về đập thủy điện này ở góc độ của những người làm địa chất, thì có thể yên tâm một cách tuyệt đối.
Kỳ 2 (kỳ cuối): Kỳ công tìm nơi xây thủy điện
Ngày công trình thủy điện Sơn La khởi công là ngày vô cùng trọng đại. Nhưng đó cũng là ngày các kỹ sư địa chất chấm dứt công việc ròng rã suốt mấy chục năm của mình.
Những kỹ sư địa chất là những người đứng sau bức rèm sân khấu. Chẳng ai biết họ đã bỏ ra mấy chục năm trời, cả tuổi trẻ, đi dọc triền sông mấy trăm km mới tìm ra được cái nơi đặt công trình thủy điện vĩ đại này.
Hồi thủy điện Hòa Bình khởi công, năm 1982, thì các kỹ sư địa chất như Huỳnh Phong, Nguyễn Văn Nhân, Nguyễn Văn Tuân, Bùi Khôi Hùng... thuộc Xí nghiệp khảo sát xây dựng điện I, cũng rời Hòa Bình.
Giai ma bi an ve qua trinh tim noi dat dap thuy dien Son La hinh anh 1
Kỹ sư Huỳnh Phong (phải) và Nguyễn Văn Nhân (giữa), những người mất 20 năm để tìm ra nơi đặt thủy điện Sơn La an toàn tuyệt đối.
Họ vào Tây Nguyên khảo sát xây dựng thủy điện Yaly, Sê San 3, Sê San 4, Plây Crông, vào Đông Nam Bộ khảo sát thủy điện Trị An. Vùng Tây Bắc thì khảo sát không thiếu sông nào, tìm ra vô số địa điểm ngăn sông đắp đập.
Tuy nhiên, với lứa kỹ sư kỳ cựu của Xí nghiệp khảo sát xây dựng điện I này, thì thủy điện Sơn La thực sự là dấu ấn lớn nhất cuộc đời họ. Với các thủy điện khác, họ chỉ mất vài năm là khảo sát xong, nhưng thủy điện Sơn La đã ngốn mất 23 năm ròng.


Từng ấy năm là không biết bao nhiêu mồ hôi, nước mắt, cả máu xương những người khảo sát địa chất đã đổ xuống con sông mà anh em địa chất gọi là "Ma-cà-rồng" này.
Giai ma bi an ve qua trinh tim noi dat dap thuy dien Son La hinh anh 2
Thủy điện Sơn La. (ảnh Đức Cường)
Những năm 80 của thế kỷ trước, đường lên Mường La thực sự khủng khiếp. Để đi từ Hà Nội lên đến Mường La phải mất trọn 3 ngày. Từ Mường La vào các bản làng dọc sông Đà, cho đến tận thượng nguồn con sông này, chỉ còn cách cuốc bộ.
Các kỹ sư địa chất đi đâu, là cả một phòng thí nghiệm đi theo. Vô vàn những thứ máy móc, thiết bị, toàn là cục sắt, cục chì nặng chịch. Hãi hùng nhất là những chiếc máy khoan SKB của Liên Xô nặng đến 5 tấn. Các loại máy khoan hạng nhẹ khác cũng nặng trên dưới một tấn.
Máy móc nặng như vậy, mà đường sá thì không có, nên quả là khủng khiếp. Anh em phải tháo rời máy, rồi vận chuyển như kiểu kéo pháo lên núi. Với những thiết bị nặng thì phải mở đường mới mang lên được.
Nhiều chỗ núi hẹp, phải bắn cáp vào hai đỉnh núi, rồi cả người và dụng cụ trượt trên không trung vô cùng nguy hiểm.
Giai ma bi an ve qua trinh tim noi dat dap thuy dien Son La hinh anh 3
Thủy điện Sơn La hồi xây dựng.
Công việc của các chuyên gia địa chất là khoan vào lòng núi, khoan xuống lòng sông để phân tích địa tầng, đất đá, rồi phân tích, lập bản đồ địa chất.
Những cán bộ địa chất cũng phải cắm mốc đo mực nước cao nhất, thấp nhất của lòng hồ.


Để hình dung công việc của những cán bộ địa chất làm công việc âm thầm này, ta chỉ nhìn vào hồ thủy điện Sơn La hiện hữu từ vệ tinh.
Chân đập là xã Ít Ong của huyện Mường La, thì cách đó 240km, tận đất Lai Châu mới là cuối hồ. Tính ra, cái hồ thủy điện Sơn La có chu vi cả ngàn km.
Điều đó có nghĩa, những kỹ sư địa chất phải làm việc tỉ mẩn trên một diện tích có chu vi tới cả ngàn km. Công việc của họ không chỉ là cắm mốc, mà phải xem xét từng hòn đá, khe núi, con suối.
Giai ma bi an ve qua trinh tim noi dat dap thuy dien Son La hinh anh 4
Đập thủy điện Sơn La là một khối bê tông khổng lồ, bất chấp lũ dữ và động đất.
Họ phải chui vào từng hang động để tính toán mức độ thất thoát nước, lưu trữ nước. Họ phải khoan thủng chi chít từng ngọn núi để xác định hang ngầm, vết nứt, để tìm biện pháp xử lý. Chỉ cần bỏ sót vài hang ngầm, có thể khiến mực nước thủy điện Sơn La hao hụt và khiến một vùng nào đó ngập lụt trắng băng.
Để làm được từng ấy công việc, suốt hơn 20 năm ròng, có đến 200 công nhân, kỹ sư địa chất làm việc. Lúc cao điểm, có tới 500 lính địa chất tỏa đi dọc sông Đà, lên tận biên giới làm việc miệt mài.
Mặc dù công việc của họ vô cùng vất vả như vậy, nhưng chỉ cần một ý kiến tranh cãi, hay một dấu hỏi được đặt ra, đặc biệt là vấn đề nguy hiểm liên quan đến đập, là những kỹ sư địa chất lại làm lại từ đầu, nhằm làm sáng tỏ vấn đề. Mạng sống của cả triệu con người dưới hạ du phụ thuộc một phần rất lớn vào sự cẩn trọng của những kỹ sư địa chất.
Giai ma bi an ve qua trinh tim noi dat dap thuy dien Son La hinh anh 5
Những cửa xả ít khi phải sử dụng, bởi hồ chứa rất lớn, độ an toàn đập rất cao.
Các nhà khoa học Pháp, Trung Quốc đã phải chào thua sông Đà vì nó có bề dày phong hóa quá lớn, tức là lớp đá dưới lòng sông đang chịu ảnh hưởng của thời gian, điều kiện thời tiết...
Hơn nữa, lớp sỏi cuội ở tầng phủ và lớp cuội tảng lại quá dày, nếu đắp đập trên đó phải xử lý nhiều vấn đề sẽ rất tốn kém, lại không an toàn. Khó khăn như vậy, nên để xác định được địa điểm đặt nhà máy thủy điện Sơn La, riêng đoạn sông 30km ở Mường La đã phải xác định cả chục tuyến.
Mũi khoan đầu tiên mà anh Phong, anh Nhân cùng cả trăm cán bộ địa chất của Xí nghiệp khảo sát xây dựng điện I đặt là ở bản Bậu, xã Tạ Bú vào năm 1982. Tại khu vực bản Bậu, phải khảo sát 4 điểm có thể đắp đập. Tuy nhiên, tầng phong hóa ở khu vực này quá dày và rộng.


Sau 4 năm trời khảo sát, tìm ra biện pháp khắc phục để xây đập ở đây thì lại nhận được "lệnh" phải đi tìm chỗ khác, vì khu vực bản Bậu lòng sông quá rộng, nếu đắp đập phải dài hơn 600 mét, như vậy việc xây đập và xử lý đập sẽ rất tốn kém. Hơn nữa, độ an toàn cũng không tuyệt đối cao.
Giai ma bi an ve qua trinh tim noi dat dap thuy dien Son La hinh anh 6

Vậy là 4 năm trời khảo sát bị đổ xuống sông xuống biển, các kỹ sư địa chất lại vác máy móc lên bản Tạ Bú, cách bản Bậu 10km. Riêng khu vực Tạ Bú phải khảo sát 3 tuyến, mất tổng cộng 5 năm trời.
Khu vực Tạ Bú, nền đập có địa tầng khá tốt, phù hợp cho việc xây đập, tuy nhiên, vai phải đập có tầng phong hóa sâu, gồm những lớp phủ sỏi cuội và lớp bazan rất dày và có một vết đứt gãy sâu chạy qua tuyến đập.
Còn một nguyên nhân quan trọng nữa mà các kỹ sư địa chất phát hiện ra, đó là dãy núi đá vôi Pi Toong chạy dọc huyện Mường La có tầng địa chất rỗng, nhiều vết đứt gãy, tức là hiện tượng karts rất sâu.
Giai ma bi an ve qua trinh tim noi dat dap thuy dien Son La hinh anh 7
Hồ thủy điện Sơn La chứa gần 10 tỷ mét khối nước.
Đã vậy, từ cách đây trăm năm, thực dân Pháp đã đào những đường hầm lớn, chạy dọc dãy núi để tìm vàng. Nếu đắp đập ở khu vực Tạ Bú, nước sẽ dâng cao và thấm vào lòng núi, hình thành những dòng sông ngầm tống nước về hạ lưu, như vậy, không những hồ sẽ mất một lượng lớn nước mà có thể tạo ra thiên tai cho vùng hạ lưu.
Để chống thấm cho cả dãy núi đá vôi Pi Toong thì phải đào sâu vào lòng núi vài ngàn mét rồi xây tường bê tông như tường thành. Như vậy, số tiền bỏ ra sẽ vô cùng lớn mà hiệu quả lại không cao. Hơn nữa, nguy cơ sạt núi, bung đập dù rất thấp, nhưng cũng chưa an toàn ở mức tuyệt đối.
Ngoài ra, nếu đắp đập ở Tạ Bú, cả thị trấn Mường La sẽ phải di chuyển, tạo ra một sự tốn kém không cần thiết. Trách nhiệm đi tìm một địa điểm phù hợp lại đổ lên vai các kỹ sư địa chất. Coi như gần chục năm trời dày tâm nghiên cứu đã tiếp tục bỏ đi.
Sau 10 năm trời lăn lộn dọc sông Đà, thì khu vực Pá Vinh II đã được các kỹ sư địa chất "đóng dấu". Địa điểm này hội tụ đầy đủ điều kiện để xây dựng công trình thủy điện vĩ đại. Độ an toàn khi xây dựng đập thủy điện ở đây gần như là tuyệt đối. Dù động đất cỡ nào, tên lửa bắn phá vào núi non khu vực này, thì cũng khó có chuyện vỡ được đập.
Giai ma bi an ve qua trinh tim noi dat dap thuy dien Son La hinh anh 8

Còn nhớ, hồi dự án thủy điện Sơn La bắt đầu, đã diễn ra vô số cuộc tranh luận gay gắt, sôi nổi. Riêng việc tranh cãi xây dựng thủy điện cao hay thấp đã tốn kém không biết bao nhiêu thời gian, tiền bạc.
Chỉ có những kỹ sư địa chất âm thầm lăn lộn với con sông hung dữ này, mới có thể đưa ra câu trả lời sáng suốt nhất, giúp các nhà quản lý đưa ra quyết định.


Và lựa chọn xây dựng thủy điện thấp đã được chấp nhận. Việc xây thủy điện thấp sẽ chi phí ít hơn, ít phải di dân tái định cư, lại có thể tiết kiệm dòng sông làm thêm một số thủy điện trên thượng nguồn. Điều quan trọng hơn, là độ an toàn cho hàng chục triệu cư dân dưới hạ nguồn được đảm bảo ở mức gần như tuyệt đối.
Thủy điện Sơn La là "bậc thang" thứ hai trên sông Đà. Phía dưới là thủy điện Hòa Bình, trên là thủy điện Lai Châu đang xây dựng. Công suất lắp đặt 2.400 MW, gồm 6 tổ máy, mỗi tổ máy 400MW. Công trình đặt tại tuyến Pa Vinh thuộc địa phận xã Ít Ong, huyện Mường La, tỉnh Sơn La.
Thủy điện Sơn La cung cấp 10,246 tỷ kWh mỗi năm, chiếm 15% sản lượng điện cả nước. Ngoài ra, công trình còn có tác dụng chống lũ về mùa mưa, cung cấp nước về mùa khô cho đồng bằng Bắc Bộ và góp phần phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Bắc.
Được khởi công năm 2005, ngày 17-12-2010 tổ máy số 1 đã được hòa lưới thành công. Tiếp đó lần lượt các tổ máy số 2,3,4 được vận hành an toàn trong năm 2011. Đến 10-10-2012, cả 6 tổ máy đã vận hành.
Điều kỳ diệu là kỹ sư và công nhân Việt Nam thiết kế và thi công thủy điện khổng lồ này. Các chuyên gia nước ngoài chỉ đóng vai trò giám sát. Cán bộ địa chất tìm ra khu vực xây dựng thủy điện cũng là các kỹ sư Việt Nam. Trên công trường thủy điện có tới 1 vạn công nhân, kỹ sư làm việc miệt mài. 16,6 triệu mét khối đất đá được đào xúc, 20 triệu mét khối đất đá được vận chuyển, đổ 6 triệu mét khối bê tông, lắp đặt 115.000 tấn thiết bị...

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#tl