Bạch Cư Dị ( 772-846) tên chữ là Lạc Thiên , hiệu là Hương Sơn cư sĩ , người Hạ Thành ( nay là Thiểm Tây). Ông là một trong những nhà thơ hàng đầu của lịch sử thi ca Trung quốc. Nguời ta chỉ xếp ông sau Lý Bạch và Đỗ Phủ.
1.Chiêu Quân từ kỳ 1
Phiên âm :
Mãn diện Hồ sa mãn mấn phong,
My tiêu tàn đại kiểm tiêu hồng.
Thu khổ tân cần tiều tụy tận,
Như kim khước tự họa đồ trung.
Bài hát Chiêu Quân kỳ 1
Dịch thơ:
Mặt đầy cát , tóc rối gió Hồ,
Má hồng phai , mày nhạt nét tô.
Khổ sầu tiều tụy đến dường ấy,
Nàng nay mới giống bức họa đồ.
Phụng Hà dịch
3.Dạ tranh
Tử tụ hồng huyền minh nguyệt trung,
Tự đàn tự cảm ám đê dung.
Huyền ngưng chỉ yết thanh đình xứ
Biệt hữu thâm tình nhất vạn trùng.
Đàn tranh trong đêm
Dây hồng áo tía ánh trăng lung,
Tự gảy tự thương dấu thẹn thùng.
Dừng ngón dây ngưng đây dứt tiếng,
Thâm tình ly biệt thẳm muôn trùng.
mailang dịch
Bài này được coi là tóm lược của Tỳ bà hành.
3.Đại lân tẩu ngôn hoài
Nhân sinh hà sự tâm vô định,
Túc tích như kim ý bất đồng.
Túc tích sầu thân bất đắc lão,
Như kim hận tác bạch đầu ông!
Thay ông hàng xóm nói tâm sự
Người đời sao cứ nghĩ vu vơ?
Ý trước lại không giống buổi giờ
Lúc trước sầu chưa lên bậc lão
Còn nay hận tóc sớm bạc phơ!
Hoàng Giáp Tôn dịch
4.Đồng Lý thập Nhất túy ức Nguyên Cửu
Hoa thời đồng túy phá xuân sầu,
Túy triết hoa chi tác tửu trù.
Hốt ức cố nhân thiên tế khứ,
Kế trình kim nhật đáo Lương Châu.
Cùng Lý Thập Nhất say nhớ Nguyên Cửu
Giải mối sầu xuân hãy cùng say,
Thẻ rượu* ta dùng nhánh hoa thay.
Chợt nhớ cố nhân nơi xa thẳm,
Lương Châu bạn đến nội trong ngày.
Phụng Hà dịch
*Thẻ rượu : thẻ để ghi nhớ tuần rượu khi uống.
Nguyên Cửu tức Nguyên Chẩn , bạn thân của Bạch Cư Dị. Năm Nguyên Hòa thứ 4 (809) , Nguyên Chẩn phụng mệnh đi Đông Xuyên. Bạch Cư Dị tại Trường An , cùng em là Bạch Cư Giản và Lý Tiêu Trực ( trong tiêu đề là Lý Thập Nhất ) lên sông Khúc chơi xuân , rồi đến nhà Tiêu Trực uống rượu , nhớ tới Nguyên Chẩn mà làm bài thơ này.
5.Hậu cung từ
Lệ tận la cân mộng bất thành,
Dạ thâm tiền điện án ca thanh.
Hồng nhan vị lão ân tiên đoạn,
Tà ỷ huân lung tọa đáo minh.
Bài hát hậu cung
Lệ ướt đầm khăn, mộng chẳng thành,
Điện ngoài ca hát rộn âm thanh.
Hồng nhan chưa tắt ân tình dứt,
Ngồi tựa lò hương đến sáng tinh.
Không rõ người dịch
Bản dịch trong "Đường thi trích diễm"
6.Ký Tương Linh
Lệ nhãn lăng hàn đống bất lưu
Mỗi kinh cao xứ tức hồi đầu
Dao tri biệt hậu tây lâu thượng
Ưng nhẫm lan can độc tự sầu.
Gửi Tương Linh
Lạnh rơi nước mắt cóng không trôi
Ngoảnh lại đòi khi bước núi đồi
Xa biết lầu tây sau lúc biệt
Lan can buồn tựa một mình ai!
Tản Đà dịch
7.Lý Bạch mộ
Thái thạch giang biên Lý Bạch phần,
Nhiễu điều vô hạn thảo liên vân.
Khả liên hoàng lũng cùng tuyền cốt,
Tằng hữu kinh thiên động địa văn.
Đản thị thi nhân đa bạc mệnh,
Tựu trung luân lạc bất qua quân.
Mộ Lý Bạch
Bờ Thái Thạch , mộ Thi tiên
Chân mây liền dải thảo nguyên ngút ngàn
Gửi xuống xuối thẳm gò hoang
Văn từng lở đất , thơ vang động trời
Thi nhân mệnh bạc hẳn rồi
Trong đời luân lạc ai người hơn ông?
Phụng Hà dịch
9.Thái liên khúc
Lăng diệp oanh ba hà triển phong,
Hà hoa thâm xứ tiểu thuyền thông.
Phùng lang dục ngữ đê đầu tiếu,
Bích ngọc tao đầu lạc thủy trung.
Khúc hát hái sen
Hoa đùa trước gió , lá đong đưa,
Hồ sen rẽ nước chiếc thuyền ai.
Gặp chàng cúi mặt , lời muốn ngỏ,
Làm rơi đáy nước chiếc trâm cài.
Phụng Hà dịch
9.Thu giang tống khách
Thu hồng thứ đệ quá,
Ai viên triêu tịch văn.
Thị nhật cô chu khách,
Thử địa diệc ly quần.
Mông mông nhuận y vũ,
Mạc mạc mạo phàm vân.
Bất túy Tầm Dương tửu,
Yên ba sầu sát nhân.
Sông thu tiễn khách
Thu về, hồng sải cánh,
Sớm tối vượn nỉ non.
Ngày nao , con thuyền lẻ,
Cũng chốn đây chia lìa.
Mưa dầm dề ướt áo,
Mây man mác theo buồm.
Rượu Tầm Dương uống mãi,
Khói sóng lút sầu thương.
Ngô Văn Phú dịch
10.Trì thượng
Tiểu oa sanh tiểu đỉnh,
Thâu thái bạch liên hồi.
Bất giải tàng tung tích,
Phù bình nhất đạo khai.
Trên ao
Cô bé bơi thuyền nhỏ
Hái trộm sen trắng về
Không biết che dấu vết
Mặt bèo in lối đi.
Nguyễn Lãm Thắng dịch
11.Trung thu nguyệt
Vạn lý thanh quang bất khả ty.
Thiên sầu ích hận nhiễu thiên nhai.
Thùy nhân lũng ngoại cửu chinh thú,
Hà xứ đình tiền tân biệt ly.
Thất sủng cố cơ quy viện dạ,
Một phiên lão tướng thướng lâu thì.
Chiếu tha kỉ hứa nhân trường đoạn,
Ngọc thố ngân thiềm viễn bất tri.
Trăng trung thu
Vời vợi trăng trong sáng dặm trường
Nỗi buồn chất ngất giận thêm vương
Người đi biên tái bao giờ lại?
Kẻ ở thềm xưa luống đoạn trường
Thất sủng thứ phi về viện ở
Tàn binh lão tướng ẩn cung tường
Não nề trăng tỏ người đau xót
Thỏ ngọc xa hay chuyện thế thường?
Hải Đà dịch
12.Tỳ bà hành
Lời tựa :Năm Nguyên Hòa thứ 10 , ta về giữ chức Tư mã ở quận Cửu Giang. Qua mùa thu năm sau , đêm ra tiễn khách bên bến sông Bồn , chợt nghe thuyền ai có tiếng đàn tỳ bà vọng lại. Nghe trong tiếng đàn thánh thót , âm vang điệu nhạc ở kinh đô. Bèn hỏi gốc gác. Người đàn bà trả lời rằng "Tôi vốn là con hát , quê ở Trường An , học đàn tỳ bà với hai danh sư Mục và Tào. Nay tuổi đã cao , nhan sắc tàn tạ , lấy chồng làm con buôn(thường theo thuyền đi đây đi đó) " Nghe vậy , cho dọn rượu ra đãi, xin nàng đàn lại cho nghe. Đàn xong cảm xúc vô vàn, nàng bèn kể lại cuộc đời mình từ lúc còn trẻ , vui sướng cho tới lúc lưu lạc giang hồ khổ nhọc. Ta về đây làm quan đã được 2 năm thanh thản yên ổn. Hôm nay nghe nàng nầy nói chuyện, cảm thương cho số phận lưu đầy! Bèn làm một bài thơ dài tăng nàng ta, gồm 616 lời, gọi là Tỳ bà hành.
Tầm Dương giang đầu dạ tống khách
Phong diệp địch hoa thu sắt sắt
Chủ nhân hạ mã khách tại thuyền
Cử tửu dục ẩm vô quản huyền
Túy bất thành hoan thảm tương biệt
Biệt thời mang mang giang tẩm nguyệt
Hốt thanh thủy thượng tỳ bà thanh
Chủ nhân vong quy khách bất phát
Tầm thanh âm vấn đàn giả thùy
Tỳ bà thanh đình dục ngữ trì
Di thuyền tương cận yêu tương kiến
Thiêm tửu hồi đăng trùng khai yến
Thiên hô vạn hoán thủy xuất lai
Do bão tỳ bà bán già diện
Chuyển trục bát huyền tam lưỡng thanh
Vị thành khúc điệu tiên hữu tình
Huyền huyền yểm ức thanh thanh tứ
Tự tố bình sinh bất đắc chí
Đê mi tín thủ tực tực đàn
Thuyết tận tâm trung vô hạn sự
Khinh lung mạn nhiên mạt phục khiêu
Sơ vi Nghê thường* hậu Lục yêu*
Đại huyền tào tào như cấp vũ
Tào tào thiết thiết thác tạp đàn
Đại châu tiểu châu lạc ngọc bàn
Gian quân oanh ngữ hoa để hoạt
U yết lưu cảnh thủy hạ than
Thủy tuyền lãnh sáp huyền ngưng tuyệt
Ngưng tuyệt bất thông thanh tiệm yết
Biệt hữu u sầu ám hận sinh
Thử thời vô thanh thắng hữu thanh
Ngân bình sạ phá thủy tương bính
Thiết kị đột xuất đao thương minh
Khúc chung thu bát đương tâm hoạch
Tứ huyền nhất thanh như liệt bạch
Đông thuyền tây phảng tiễu vô ngôn
Duy kiến giang tâm thu nguyệt bạch
Trầm ngâm phóng bát sáp huyền trung
Chỉnh đốn y thường khởi liễm dung
Tự ngôn bản thị kinh thành nữ
Gia tại Hà Mô lăng* hạ trú
Thập tam học đắc tỳ bà thành
Danh thuộc giáo phường*đệ nhất bộ
Khúc bãi tằng giao thiện tài* phục
Trang thành mỗi bị Thu Nương* đồ
Ngũ Lăng* niên thiếu tranh triền đầu*
Nhất khúc hồng tiêu bất tri số
Điền đầu ngân tì kích tiết toái
Huyết sắc la quần phiên tửu ố
Kim niên hoan tiếu phục minh niên
Thu nguyệt xuân phong đẳng nhàn độ
Đệ tẩu tòng quân a di tử
Mộ khứ chiêu lai nhan sắc cố
Môn tiền lãnh bạc xa mã hy
Lão đại giá tác thương nhân phụ
Thương nhân trọng lợi khinh biệt ly
Tiền nguyệt Phù Lương* mãi trà khứ
Khứ lai giang khẩu thủ không thuyền
Nhiễu thuyền nguyệt minh giang thủy hàn
Dạ thâm hốt mộng thiếu niên sự
Mộng đề trang lệ hồng lan can
Ngã văn tỳ bà dĩ thán tức
Hựu văn thử ngữa trùng tức tức
Đồng thị thiên nhai luân lạc nhân
Tương phùng hà tất tằng tương thức
Ngã tòng khứ niên từ đế kinh
Trích cư ngọa bệnh Tầm Dương thành
Tầm Dương địa tích vô âm nhạc
Chung tuế bất văn ty trúc thanh
Trú cận Bồn giang* địa thế thấp
Hoàng lô khổ trúc nhiễu trạch sinh
Kỳ gian đán mộ văn hà vật
Đỗ quyên đề huyết viên ai minh
Xuân giang hoa triêu thu nguyệt dạ
Vãng vãng thủ tửu hoan độc khuynh
Khởi vô sơn ca dữ thôn địch
Âu á triều triết nan vi thính
Kim dạ văn quân tỳ bà ngữ
Như thính tiên nhạc nhĩ tạm minh
Mạc từ cánh tọa đàn nhất khúc
Vị quân phiên tác Tỳ bà hành
Cảm ngã thử ngôn lương cửu lập
Khước tọa xúc huyền huyền chuyển cấp
Thê thê bất tự hướng tiền thanh
Mãn tọa trùng văn giai yểm khấp
Tọa trung khấp hạ thùy tối đa
Giang Châu tư mã* thanh sam thấp.
*Tầm Dương giang: Ở phía Bắc huyện Cửu Giang, Giang Tây
*Nghê thường : Vũ y khúc
Lục Yêu " Ca khúc
*Hà Mô lăng : Phía Nam thành Trường An , nổi tiếng vì có nhiều ca nữ
*giáo phường : Cơ sở huấn luyện ca nữ đời Đường
*thiện tài : Tân gọi nhạc sư đời Đường
*Thu Nương : có lẽ chỉ nàng Đỗ Thu Nương , một ca kỹ nổi tiếng đương thời, tác giả của bài Kim lũ y
*Triền đầu: Tiền hoặc lễ vật tặng ca nữ
*Phù Lương : Tên huyện ở tỉnh Giang Tây
*Bồn giang : Tức Tầm Dương giang
*Giang Châu : Nay là huyện Cửu Giang , tỉnh Giang Tây
tư mã : Chức quan giúp việc cho thứ sử một châu.
Tỳ bà hành
Bến Tầm Dương, canh khuya đưa khách.
Quạnh hơi thu, lau lách đìu hiu.
Người xuống ngựa, khách dừng chèo,
Chén quỳnh mong cạn, nhớ chiều trúc ty.
Say những luống ngại khi hầu rẽ,
Nước mênh mông đượm vẻ gương trong.
Tiếng tỳ chợt vẳng trên sông,
Chủ khuây khỏa lại, khách dùng dằng xuôi.
Lần tiếng sẻ, hỏi ai đàn tá ?
Lửng tiếng đàn, nấn ná làm thinh.
Dời thuyền theo hỏi thăm tình,
Chong đèn, thêm rượu , còn dành tiệc vui.
Mời mọc mãi thấy người bỡ ngỡ,
Tay ôm đàn che nửa mặt hoa.
Vặn đàn vài tiếng dạo qua,
Tuy chưa trọn khúc, tình đà thoảng hay.
Nghe não nuột mấy dây bứt rứt,
Dường than niềm tấm tức bấy lâu .
Chau mày, tay gảy khúc sầu,
Giải bày mọi nỗi trước sau muôn vàn.
Ngón buông, bắt, khoan khoan dìu dặt,
Trước Nghê thường, sau thoắt Lục yêu.
Dây to nhường đổ mưa rào,
Nỉ non dây nhỏ như trò chuyện riêng.
Tiếng cao thấp lần chen liền gảy,
Mâm ngọc đâu bỗng nảy hạt châu.
Trong hoa, oanh ríu rít nhau,
Suối tuôn róc rách chảy mau xuống ghềnh.
Tiếng suối lạnh, dây mành ngường tắt,
Ngừng tắt nên phút bặt tiếng tơ.
Ôm sầu, đau giận ngẩn ngơ,
Tiếng tơ lặng lẽ bấy giờ càng hay.
Bình bạc vỡ tuôn đầy mạch nước,
Ngựa sắt giong, thét bặt tiếng đao.
Cung đàn trọn khúc thanh tao,
Tiếng buông xé lụa, lựa vào bốn dây.
Thuyền mấy lá đông tây lặng ngắt,
Một vầng trăng trong vắt lòng sông.
Ngậm ngùi đàn bát xếp xong,
Áo xiêm khép nép cầu mong giải lời.
Rằng xưa vốn là kẻ chợ,
Cồn Hà Mô trú ở lân la.
Học đàn từ thuở mười ba,
Giáo phường đệ nhất sổ đà chép tên.
Gã thiện tài sợ phen dừng khúc,
Ả Thu Nương ghen lúc điểm tô.
Ngũ Lăng, chàng trẻ ganh đua,
Biết bao the tấm chuốc mua tiếng đàn.
Vành lược bạc gãy tay nhịp gõ,
Bức quần hồng hoen ố rượu rơi.
Năm năm lần lữa nói cười,
Mải gió trăng chẳng đoái hoài xuân thu.
Buồn em trẩy, lại sầu dì thác,
Lần hôm mai đổi khác hình dung.
Cửa ngoài xe ngựa vắng khôn,
Thân già mới kết đôi cùng khách thương.
Khách trọng lợi khinh thường ly cách,
Mãi buôn chè, sớm tếch miền khơi.
Thuyền không đậu bến mặc ai,
Quanh thuyền trăng dãi, nước trôi lạnh lùng
Đêm khuya sực nhớ vòng tuổi trẻ,
Lệ trong mơ hoen vẻ phấn son.
Nghe đàn ta đã chạnh buồn.
Lại rầu nghe nỗi nỉ non mấy lời,
Cùng một lứa bên trời lận đạn,
Gặp gỡ nhau lọ sẵn quen nhau.
Từ xa kinh nguyệt bấy lâu,
Tầm Dương đất trích, gối sầu hôm mai.
Chốn cùng tịch lấy ai vui thích,
Tai chẳng nghe đàn địch cả năm.
Sông Bồn gần chốn cát lầm,
Lau vàng, trúc võ nảy mầm quanh hiên.
Tiếng chi đó nghe liền sớm tối,
Hoa xuân nở, nguyệt thu tròn,
Lần lần tay chuốc chén son riêng ngừng.
Há chẳng có ca rừng địch nội,
Giọng líu lo, nhiều nỗi khó nghe.
Tiếng tỳ dạo canh khuya,
Dường như tiên nhạc gần kề bên tai.
Hãy ngồi lại gảy chơi khúc nữa,
Sẽ vì nàng soạn sửa bài ca.
Tần ngần dường cảm ơn ta,
Dén ngồi bắt ngón đàn đà kịp dây.
Nghe não nuột khác tay đàn trước,
Khắp tiệc hoa tuôn nước lệ ròi.
Lệ ai chan chứa hơn người?
Giang Châu Tư mã đượm mùi áo xanh.
Phan Huy Thực dịch
13.Vịnh Vũ Hầu
Tiên sinh hối tích ngọa sơn lâm,
Tam cố na phùng thánh chủ tầm.
Ngư đáo Nam Dương phương đắc thủy,
Long phi thiên hán tiện vi lâm.
Thác cô ký tận ân cần lễ,
Báo quốc hoàn khuynh trung nghĩa tâm.
Tiền hậu xuất sư di biểu tại,
Linh nhân nhất lãm lệ triêm khâm.
Vịnh Vũ Hầu
Tiên sinh náu tiếng chốn sơn lâm
Hiền chúa ân cần muốn tới thăm
Cá đến Nam Dương rào nước quẫy
Rồng bay Tây Thục đổ mưa dầm
Sụt sùi giọt ngọc trao con đỏ
Gắng gỏi lòng son trả nghĩa thâm
Hai biểu xuất sư còn để lại.
Khiến người coi thấy lệ đầm đầm.
Phan Kế Bính dịch
Vũ Hầu tức Khổng Minh Gia Cát Lượng.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro