Chương 122. Lửa cháy tứ bề

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương 122. Lửa cháy tứ bề

Lò tù trưởng nấp sau hàng rào nhìn chiến cuộc, thấy Lò đại nhân cùng bọn tráng binh phải bỏ chạy trối chết mà cảm thấy chua xót, thế là bao nhiêu công sức cùng vô số ván tường dỡ ra đã trở thành than củi.

Vậy mà vẫn không giết được một tên phản loạn nào. Nghĩ đến hai tên nội tôn Lò Đên, Lò Đổn cùng 100 gã tráng binh đang núp ngoài bìa rừng mà Lò tù trưởng thầm lo lắng, lão quay người quát:

"Đóng cửa, đóng cửa mau..."

Lò lão tam đang đứng gần đó vội hô hào bọn tráng binh đóng cổng lại, lát sau Lò lão tam hổn hển chạy đến gần Lò tù trưởng nói:

"Huynh trưởng, cổng chính đã đóng rồi, còn bọn Lò Đên, Lò Đổn thế nào?".

Lò tù trưởng bèn bảo Lò lão tam:

"Đệ mau chóng cho thổi kèn thu quân, đồng thời cho người đuổi theo bảo Lò Đên, Lò Đổn quay lại, không được tham chiến nữa. Chúng ta rút vào bản rồi cố thủ, mặc kệ bọn phản loạn bên ngoài đi...".

Lò lão tam nghe Lò tù trưởng dặn thì chạy đi, một lúc sau cổng phụ Lò Gia Bản mở ra rồi 2 tên tráng binh vọt theo hướng của bọn Lò Đên, Lò Đổn mà đuổi theo.

Lại nói đến đám tráng binh của Lò Đên, Lò Đổn. Khi chúng chạy vòng trong rừng ra phía sau lưng đối phương thì thấy ở phía Lò Gia Bản có tiếng kêu gào vọng lại.

Vì còn cách một khoảng xa, không rõ tình hình thực tế nên Lò Đổn bèn nói với Lò Đên:

"Đại ca, nội gia gia dặn chúng ta vòng ra sau quân phản loạn rồi nằm im phục kích, chờ chúng rút chạy thì tấn công bất ngờ, nhưng không biết phục kích ở chỗ nào?".

Lò Đên bèn đưa mắt nhìn khắp cánh rừng rồi nói:

"Mịe kiếp, quanh đây toàn rừng thưa không có cây to, chỉ toàn cây nhỏ và bụi rậm, nếu để quân phản loạn phát hiện từ xa sẽ rất bất lợi. Vì thế bọn ta nên nằm xuống rồi trườn sát vào, chỉ cần phục giết được vài tên phản loạn là gỡ lại được danh dự lần trước..."

Lò Đên vừa nói vừa nghĩ đến cảnh ngày trước bị quân phản loạn bắt, gã vừa bị đánh, vừa bị gí đao vào cổ đến chảy máu, bất giác gã nhăn mặt lại thành một hình dữ tợn.

Hai tên bèn ra lệnh cho bọn tráng binh nằm xuống rồi bí mật trườn tới chỗ đối phương. Bọn tráng binh tay đao, tay thớt, người lại cởi trần đóng khố bò lổm ngổm như một đàn khỉ.

Khoảng rừng quanh bản vốn lưa thưa, do trước kia người dân chặt hết cây to để làm nhà, chỉ còn lại toàn cây nhỏ bằng cổ chân và bụi rậm ngang đầu gối, thỉnh thoảng lại có một ruộng khoai của ai đó trồng giữa rừng nên chỉ cần chú ý quan sát là có thể nhìn rất xa.

Bọn Lò Đên, Lò Đổn vì cẩn thận nên không dám đứng lên mà chỉ nằm ẹp xuống đất mà bò, được một đoạn thì Lò Đổn bỗng kêu "a" một cái, Lò Đên lập tức quay sang gắt:

"Đệ làm gì mà kêu to vậy, nhỡ bọn phản loạn phát hiện thì sao?".

Lò Đổn nghe mắng bèn chỉ ra phía sau nói:

"Đại ca, đệ bị 2 con vắt bám vào mông, 1 con chui vào khố, ngứa quá...".

Vừa nói Lò Đổn vừa chìa mông ra, chỉ thấy trên hai bờ mông bóng loáng của gã có 2 con vắt sưng mọng bằng ngón tay út, con nào cũng hút máu căng tròn, một con còn nghoe nguẩy cái đầu trông khá kinh dị.

Lò Đên nhìn thấy bèn "hừ" một cái rồi nói:

"Phải cố gắng mà chịu đựng chứ, lúc nãy ta bò qua ổ kiến lửa, bị chúng chui đầy khố mà chích vẫn phải nhịn đây này..."

Hai tên bèn động viên lẫn nhau và giục bọn tráng binh tiến lên, nhưng còn chưa đến mục tiêu thì thấy tiếng kèn sừng trâu của Lò Gia Bản vang lên 2 hồi dài, 1 hồi ngắn báo hiệu thu quân, Lò Đổn bèn hỏi Lò Đên:

"Thế là thế nào? Chưa đánh đã thu quân, chúng ta còn phục kích tiếp không?".

Lò Đên nghe hỏi thì đực mặt ra một lúc mới trả lời:

"Tạm thời nằm im, nếu không thuận lợi thì không nên liều mạng...".

Hai tên bèn ra hiệu cho bọn tráng binh nằm xuống, nhờ có các bụi cây che chắn nên chưa ai phát hiện ra.

Bỗng có mùi khét của lửa cháy lan tới, bọn tráng binh bèn ngước mắt nhìn về phía Lò Gia Bản thì thấy khói lửa mù mịt kèm theo tiếng người hô ầm ĩ:

" Oa ha ha... thằng Lò Tôn chạy rồi, xem mông nó kia kìa..."

Mấy tiếng hô này chói tai, lời lẽ chua chát, nghe rất hỗn xược đến 3 đời Lò tù trưởng sống lại cũng phải tức nổ phổi. Nhưng dù tiếng chửi ầm ĩ như thế nào thì Lò Gia Bản vẫn không có động tĩnh, có lẽ Lò tù trưởng cùng Lò lão tam đang bận cấp cứu cho Lò đại nhân nên không kịp điều quân chửi lại.

Lò Đổn thấy thế bèn bảo với Lò Đên:

"Đại ca, chẳng lẽ quân ta lại chạy sao? Bây giờ làm thế nào...?".

Lò Đên nghe hỏi thì lúng túng, gã chưa kịp trả lời thì thấy 2 tên tráng binh hổn hển chạy đến nói:

"Hai vị công tử, Lò lão tù trưởng ra lệnh cho 2 công tử lui binh bảo toàn lực lượng, không được tham chiến nữa..."

2 tên Lò Đên, Lò Đổn sau một hồi ngơ ngẩn không hiểu sao, nhưng mệnh lệnh của nội gia gia không thể không chấp hành, cuối cùng chúng đành ra hiệu cho bọn tráng binh rút lui.

Bọn tráng binh bèn đứng bật dậy như bị điện giật rồi hô to:

"Xung phong..." rồi chúng quay người bỏ chạy về Lò Gia Bản.

Kể ra cũng buồn cười, lúc tới thì lén lén lút lút, đến vắt cắn, kiến chích cũng không dám kêu. Thế mà lúc bỏ chạy thì ồ ồ ạt ạt, vừa chạy vừa hò hét "xung phong" váng trời.

Dù sao cũng không trách được bọn tráng binh, chúng không có tinh thần chịu chết hay hy sinh vì đồng đội như bao nhiêu đời tù trưởng hy vọng.

Vì theo luật bất thành văn của người dân tộc, tráng binh có nghĩa vụ tham gia bất kỳ một cuộc chiến tranh nào của các tù trưởng, nhưng lại không được bất kỳ quyền lợi gì.

Ngày thường, bọn tráng binh đều là những dân bản tham gia vào các hoạt động trong gia đình, chúng phải trồng khoai, trồng lúa hay săn bắn thú rừng, phải nuôi con dạy cái hay chăm sóc cha mẹ già yếu.

Những lúc có chiến tranh, chúng buộc phải rời gia đình, rủi cho tên nào chết thì coi như thiệt hại, cùng lắm vợ con được đền bù ít tiền.

Vì để ép buộc bọn lính bất đắc dĩ này nghe theo lệnh mình, các tù trưởng thường đem gia đình bọn chúng ra dọa giết khiến chúng lo sợ mà ngoan ngoãn, nhưng không phải tất cả bọn tráng binh đều như vậy.

Cũng có nhiều tên bất mãn phản kháng, nhưng đa phần là chúng im lặng chờ cơ hội. Nếu trường hợp bất lợi chúng đầu hàng hoặc bỏ chạy, các tù trưởng cũng không làm được gì, cùng lắm là phạt dăm đấu thóc, vài miếng thịt thú rừng mà thôi.

Do vậy nên các tù trưởng muốn bọn chúng trung thành hoặc răm rắp tuân theo mệnh lệnh, tuyệt đối là một điều viển vông. Chỉ cần có lệnh rút chạy, đảm bảo bọn tráng binh còn nhanh hơn bị ma đuổi.

Chỉ khi có thảm họa thật sự, thí dụ như cướp hoặc giặc ngoại xâm uy hiếp đến gia đình, gia tộc mình thì lúc đó bọn tráng binh mới thực sự liều mạng.

Nhưng trong trường hợp tranh chấp quyền lực giữa các tù trưởng hay đánh nhau giữa người dân tộc với nhau lại khác, đa phần bọn tráng binh sẽ ngả theo kẻ mạnh hơn ngay lập tức, dù sao theo kẻ mạnh cũng có lợi.

Vì thế Lò tù trưởng không dám để bọn tráng binh này chiến đấu tự do ngoài rừng, sợ chúng đầu hàng hoặc bỏ chạy hết thì lấy ai phòng thủ Lò Gia Bản. Vì suy nghĩ sâu xa, cẩn thận nên lão đành ra lệnh cho chúng rút về.

Sau khi cổng phụ của Lò Gia Bản đóng sập lại, 2 tên Lò Đên, Lò Đổn mới thở dài hoàn hồn. Mịe kiếp, đúng là nguy hiểm thật, rủi quân phản loạn phát hiện ra rồi đuổi theo thì chạy không kịp.

Hành động của đám Lò Đên, Lò Đổn cũng khiến đám nghĩa binh giật mình hết hồn. Từ lúc bắt đầu cuộc chiến, chúng hầu như không để ý sau lưng cho đến khi bỗng thấy cả trăm tên tráng binh tay đao tay thớt ào ào đứng lên hô "xung phong" váng cả tai.

Cũng may chúng không xông về phía trước mà lại bỏ chạy thục mạng khiến cho đám Mông Đại, Mông Nhị nửa khóc nửa cười.

Nếu bọn tráng binh này mà xông tới thì hậu quả thật thảm khốc, Mông Đại sau một hồi hết hồn bèn tự nhủ lần sau nếu có đi đánh nhau trong rừng, nhất định phải đề phòng phục kích của đối phương.

Mông Nhị nhìn theo bọn tráng binh chạy đi, gã bỗng thấy tiêng tiếc khi không kịp cho nghĩa quân đuổi theo. Thấy Mông Đại đứng im như suy nghĩ gì đó, Mông Nhị bèn hỏi:

"Huynh trưởng, bọn chúng chạy về Lò Gia Bản cố thủ, chúng ta tiếp theo làm gì?".

Mông Đại nhếch mép cười khẩy, miệng nói:

"Hoàng trấn chủ bày chúng ta cách đánh bọc vòng, quả là phá được trận thế của chúng. Chắc bây giờ chúng sẽ không dám ra đánh nữa mà cố thủ chờ trời mưa, làm quân ta phải rút lui... Mịe kiếp, lão Lò Côn cũng thật là cáo già".

Nói xong, Mông Đại liếc mắt về mấy tên đao thủ đang trông một đống đồ gần đấy rồi cười tiếp:

"Cũng may, trấn chủ đã cho chuẩn bị trước. Bây giờ chúng ta lấy mũi tên tẩm dầu ra rồi bắn vào những mái nhà trong bản, cho chúng bốc cháy thành chuột hun khói... đi".

Thế là hai tên Mông Đại, Mông Nhị bèn ra lệnh cho nghĩa binh đưa 100 mũi tên đã được chuẩn bị sẵn ra, mỗi mũi tên dài đến 1 thước, to bằng ngón tay, đầu mũi tên còn được buộc một tấm giẻ rách tẩm dầu.

Mông Đại, Mông Nhị cho nghĩa binh đi vòng quanh bản, vừa đi chúng vừa giương nỏ dọa nạt khiến cho Lò tù trưởng bên trong phải luôn điều tráng binh chạy theo đề phòng.

Mỗi khi đi đến một chỗ thích hợp cách hàng rào Lò Gia bản chừng 100 thước, hai tên này cho dừng lại chửi bới khiêu khích, chúng hò hét những câu như:

"Lò Côn lão tiểu nhi ra đây mà ngửi khói này..."

"Nếu không chịu đầu hàng, bọn ta cho thành chuột nướng luôn..."

Sau khi cho chửi bới chán chê, bọn Mông Đại bèn cắm tên vào trọng nỏ rồi đốt tên, cuối cùng chúng giương nỏ thành một góc 45 độ rồi nhắm vào những mái nhà trong bản mà bắn.

Có tên nghĩa binh còn cắm cả mũi tên vào bãi phân trâu to tướng gần đó rồi quấy quấy vài cái, xong rồi gã gương nỏ ngắm vào Lò Gia Bản hét lớn:

"Bã nướng, bã nướng đê, ăn nhanh kẻo nguội..." dứt lời gã bóp cò.

Dưới sự chỉ huy của Mông Đại, hàng loạt mũi tên lửa được bắn liên tiếp vào Lò Gia Bản như cầu vồng, tuy thỉnh thoảng cũng có mũi bắn trượt, nhưng hầu hết đều rơi đúng mái nhà hoặc cắm lên vách tường khiến cho một lúc sau, các mái nhà trong bản đều bốc cháy đùng đùng.

Khi sản xuất các nỏ kiểu mới, Hoàng Chân đã cho áp dụng 2 cách bắn, ngoài bắn đạn sắt thông thường thì trường nỏ hay trọng nỏ đều có thể bắn được mũi tên.

Bọn nghĩa binh cũng phải thường xuyên luyện tập kiểu này gọi là bắn cầu vồng, dùng trọng lực của mũi tên để gây thương vong cho địch thủ.

Hơn nữa là kiểu bắn này vốn rất phổ biến trong các trận đấu cung, mũi tên sẽ bay lên trời ở góc 30 hay 45 độ rồi rơi xuống, khác với kiểu bắn thẳng thông thường.

Nhưng bởi vì mũi tên mang vác nặng, số lượng không được nhiều nên bọn nghĩa quân thích dùng đạn sắt hơn, trừ trường hợp phóng hỏa đốt nhà... như thế này thì dùng mũi tên tẩm dầu mới thích hợp.

Điều đáng nói là Lò tù trưởng mặc dù cho quây hàng rào quanh bản, nhưng bởi vì diện tích có hạn nên rất nhiều nhà đều nằm sát hàng rào, tức là nằm trong tầm bắn của đối phương.

Mà trọng nỏ nghĩa quân nếu bắn tên bình thường thì có thể bắn xa đến 300 - 400 thước, hơn 4 lần cung thủ của Lò gia. Vì thế khi đám Mông Đại, Mông Nhị tiến đến cách hàng rào 100 thước thì toàn bộ Lò Gia Bản đều nằm trong tầm bắn của chúng.

Điều này không thể trách Lò tù trưởng không nhìn xa trông rộng, đối đầu với những vũ khí do "quái vật" Hoàng Chân sáng tạo, cung thủ của lão không có cơ hội ra tay, chúng chỉ đành giương mắt nhìn đối phương nã đạn.

Sau khi bắn liên tiếp, nghĩa quân Mông Đại đã khiến cho cả Lò Gia Bản bốc cháy, từng làn khói cuồn cuộn bốc lên trời cùng hàng chục mũi tên lửa rừng rực lao xuống như sao chổi trông rất đẹp mắt.

Chỉ sau canh giờ thì Lò Gia Bản đã biến thành biển lửa, khói mù khét lẹt bốc lên cao hàng trăm thước, đứng xa mấy dặm cũng trông thấy, đến chim thú hoang cũng tưởng là cháy rừng mà bỏ chạy toán loạn.

Ở trong bản, Lò tù trưởng cùng Lò lão tam liên tục hò hét tráng binh cùng dân bản đi dập lửa nhưng chẳng ăn thua, bởi vì lửa cháy trên mái nhà mà dân chúng cùng tráng binh đâu có ngồi sẵn trên đó mà chờ dập lửa.

Nhất là mái nhà trong bản đều lợp bằng cỏ tranh hay lá cọ khô nên càng dễ bốc hỏa, chỉ cần có mồi lửa đến gần là cháy rừng rực không tài nào dập nổi.

Lửa sau đó còn lan xuống bên dưới, đến lượt các khung nhà bằng gỗ cũng bị bốc cháy và đổ gục khiến cho dân chúng vô cùng hoảng loạn.

Sức nóng rừng rực cùng khói bụi làm cho toàn bộ người trong bản ngạt thở, nhiều người lao vào cứu tài sản bị bỏng nặng, đầu tóc bị cháy rụi, tiếng khóc tiếng than cất lên không ngớt.

Trong bản còn hàng nhốt chục con trâu, ngựa chó lẫn mèo gà heo... các loại, khi khói lửa bốc lên thì chúng như nổi điên chạy khắp nơi, gặp người là húc, là cắn, là cào, là đá... rất hung tợn.

Khắp trong bản vang lên tiếng chửi rủa, tiếng kêu trời kêu đất hòa cùng tiếng gà kêu chó sủa, heo gào ngựa hí vô cùng hỗn loạn. Hàng loạt nhà sàn cùng chuồng heo, chuồng ngựa, chuồng gà... tài sản, lương thực... bị đốt cháy, lửa lan ra cả hàng rào gỗ bên ngoài.

Nhất là mấy chục tên hàng binh bị đám Mông Đại bắt đi lao động từ trước, do mấy ngày nay chúng bị đói lại bị Lò Tôn đại nhân tịch thu tiền nên rất bất mãn.

Lợi dụng khói lửa nổi lên khắp nơi không ai nhìn thấy gì nên bọn này tụ tập nhau lại, ngoài chửi bới cả nhà Lò tù trưởng ra, chúng còn kích động tráng binh khác cùng dân bản nổi loạn.

Cuối cùng vì không chịu được khói lửa, vì có kẻ kích động nên đám dân chúng cùng gia súc bèn hè nhau xô đổ hàng rào, cổng gỗ của Lò Gia Bản mà chạy, lẫn trong đó còn hàng trăm tên tráng binh cũng chạy theo giúp người nhà khênh vác gia sản hoặc thoát thân giữ mạng.

Lúc này, đám Mông Đại đã phóng hỏa xong, chúng kéo về trấn giữ cổng chính Lò Gia Bản phòng Lò tù trưởng bỏ trốn.

Mông Đại và Mông Nhị cùng đám nghĩa binh đứng nhìn lửa cháy khắp nơi thì rất hể hả, hơi nóng cùng khói dày đặc khiến chúng phải tránh xa Lò Gia Bản đến 200 thước. Chúng chỉ chỏ cười nói, thậm chí còn cá cược nhau xem Lò tù trưởng có thành thịt nướng hay không.

Bỗng cổng chính của Lò Gia Bản sập đổ đánh "rầm" rồi từ trong đám khói lửa bỗng xuất hiện một đàn người đông nghịt lẫn gia súc hỗn loạn, đám này chạy ra đến trước mặt Mông Đại khiến cho gã rất lúng túng, không biết có nên bắn chết tất cả hay không.

Cũng may đám này sau khi chạy đến trước mặt Mông Đại, Mông Nhị thì dừng lại thở hổn hển, bọn nghĩa binh nhìn thấy trong đám người có nhiều tên hàng binh đã bị nhồi sọ lần trước.

Đám người này thấy Mông Đại thì quỳ rạp xuống đất, một tên tráng binh từng bị tẩy não kính cẩn nói:

"Thưa Mông chỉ huy, bọn chúng ta xin đầu hàng. Xin ngài hãy phát cơm cho chúng ta ăn bởi vì mấy ngày nay chúng ta rất đói. Chúng ta còn xin ngài cho... đi làm thuê để kiếm tiền nuôi gia đình... Chúng ta thề từ nay sẽ trung thành với ngài và xin tôn ngài làm... tù trưởng mới ạ".


Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro