Chương 91. Diễn biến sau hậu chiến

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương 91. Diễn biến sau hậu chiến.

Cách dãy núi Quỷ về phía bắc gần 10 dặm là một cái hồ rất lớn, chiều dài tới trăm dặm, chiều rộng hơn 10 dặm gọi là hồ Nhật Hạ. Hồ gần như chạy dọc theo dãy núi từ tây sang đông và là nơi tích nước trong mùa mưa của cả vùng rừng núi nguyên thủy này. 

Mặc dù hồ rất lớn nhưng xung quanh lại hoang vắng bóng người, chỉ có vài cái bản nhỏ ven hồ nhưng lại không có dân chài. Vì thế mà nước hồ rất trong, sâu không thấy đáy và thủy sản qua ngàn năm có vô vàn tôm cá khủng bố.

Vào mùa này, nước hồ khá cạn trơ cả đá cuội ven bờ. Buổi chiều, mặt hồ thường có một lớp sương mỏng lượn lờ và trở nên dày đặc vào sáng sớm. Nhưng chỉ cần mặt trời lên quá con sào là lớp sương mù này tan hết, để lại một mặt nước bao la và một khung cảnh hùng vĩ phản chiếu mây trời xuống mặt hồ, hết sức đẹp đẽ và thơ mộng.

Cách bờ hồ chừng hai dặm có 4 cái bè nứa nổi lềnh bềnh, từ từ trôi trong gió chiều. Trên đó có 16 người mặc quần áo màu đen, đầu đội nón rộng vành che kín cả khuôn mặt. 

Một người đàn ông ngồi trên chiếc bè đầu cùng, thỉnh thoảng gã lại nhìn vào bờ hồ đối diện. Đến lúc trời gần tối, gã lấy một cây đuốc to tướng, trên có quấn một cuộn thừng để đốt, khói từ cây đuốc tỏa ra nhè nhẹ trên mặt hồ rồi bay đi theo gió.

Khoảng 2 canh giờ sau, bầu trời đã bắt đầu hơi tối. Từ phía bờ hồ đối diện mấy chiếc bè bỗng sáng lên 3 đống lửa, sắp thành một hàng đều đặn. 

"Vào bờ..." Người đàn ông hô lớn lên sau khi nhìn thấy 3 đống lửa. Theo mệnh lệnh của gã, những người trên bè vội vàng vơ lấy mái chèo, chèo cật lực vào bờ.

Chừng 1 canh giờ sau, chiếc bè chỉ còn cách bờ hơn trăm thước. Sát bờ hồ có nhiều bóng người thấp thoáng, 3 đống củi lớn đang bốc cháy rừng rực, ánh sáng soi tỏ cả mép hồ.

Người đàn ông đứng đầu bè vội hô lớn: "Mèo đấy phải không?"

Mấy bóng người trên bờ hồ vội hô lại: "Không, là chó đây..."

Sau đó mép hồ xuất hiện thêm nhiều người nữa, họ lội xuống mép hồ chờ đợi mấy chiếc bè tiến tới.

Bè chưa đến gần bờ thì người đàn ông trên bè đã nhảy "ùm" xuống. Gã nhanh chóng lội vào bờ, vẻ mặt hân hoan tột độ khi nhìn thấy đám người.

"Trấn chủ, Bảo lão... Mọi người thế nào?". Gã đàn ông lên tiếng hỏi.

"À, Trình chỉ huy đấy à. Bọn ta không sao nhưng mệt rã cả người đây..." Có tiếng một lão già mệt mỏi trả lời.

"Tất cả lên bè đi, chúng ta chờ đợi ở đây đã 2 ngày rồi...". Người đàn ông nói.

Thế là đám người không ai bảo ai, tất cả đều leo lên bè. Vẻ mặt của họ rất mệt mỏi, có người vừa leo lên bè đã nằm vật ra, mặc kệ cả nước bắn lên mặt.

Hóa ra những người này là đám nghĩa binh ở trên núi Quỷ. Trải qua 3 ngày trèo đèo, lội suối, ăn cơm nắm uống nước khe, bọn họ đã tới được địa điểm hẹn trước do Bảo thị dặn dò.

Trước khi rút khỏi sơn trại, bọn họ đã đốt hủy hàng loạt nhà cửa, vật dụng, vũ khí mà bọn họ đã đổ công sức gây dựng lên. Sau đó, họ đi về phía đông mấy chục dặm, đến được địa điểm an toàn mới bắt đầu nổi lửa, làm báo hiệu cho người đến đón.

Lần rút quân thuận lợi này cũng một phần do gần đây, tiểu trấn có nhu cầu lớn về tre nứa gỗ đá để xây dựng và sản xuất nên đã có ba đội nhân công được tuyển dụng chuyên môn khai thác tre gỗ ở ven hồ. 

Số tre gỗ này được tập kết ở bắc hồ rồi được thả trôi theo dòng thác về phía hạ lưu. Sau đó, nhân công lại vớt tre, gỗ lên mang về tiểu trấn.

Nhờ đó mà khi biết tin tức xấu, Bảo thị đã cùng với Mông lão bàn bạc, cử Trình Đạt chuẩn bị các bè tre nứa có sẵn, chờ đón nghĩa binh rút lui. 

Sau khi lên bè, bọn họ vượt hồ về phía bắc, sang đến lãnh địa do Hà tù trưởng quản lý rồi vòng về tiểu trấn.

Mấy ngày sau, đám người về đến tiểu trấn trong niềm hân hoan của những người ra đón. Sau khi nghỉ ngơi một tuần cho lại sức, họ lại bắt đầu kế hoạch mới.

Bời vì lý do an toàn, tiểu trấn không thể để lộ bí mật về đám nghĩa binh này, hai nữa bọn chúng còn cần chỗ huấn luyện, phát triển và thử nghiệm vũ khí bí mật nên Hoàng Chân buộc phải tìm kiếm địa điểm mới cho nghĩa binh xây dựng sơn trại.

Sau vài lần cân nhắc cùng khảo sát địa hình, hắn nhận thấy núi Hắc Lĩnh là một nơi rất lý tưởng cho nghĩa binh tạm thời lập sơn trại. 

Bởi vì nơi này vốn có hung danh từ thời sơn tặc nên chẳng ai muốn đến dò xét. Hơn nữa, địa hình tuy nhỏ nhưng khá an toàn, có nhiều lối thoát khi bị bao vây. Ba là khá gần tiểu trấn, trong trường hợp khẩn cấp có thể hỗ trợ lẫn nhau làm thế ỷ dốc. 

Thế là núi Hắc Lĩnh trở thành sơn trại của nghĩa quân. Một tuần sau, nghĩa quân đã bổ sung quân số lên 100 người, toàn là người tin cậy và có sức khỏe tốt, được tuyển dụng từ các bản làng dân tộc. 

Trong việc xây dựng căn cứ núi Hắc Lĩnh, nghĩa binh còn có thêm 100 tên tù binh, vốn là sơn tặc và tráng binh bị bắt trong các trận đánh khi trước. Số này, sau một thời gian chữa thương và được ăn uống no đủ, lại được học tập văn hóa, nên đa phần đều giác ngộ. 

Bọn chúng vốn trước kia mang đầy xú danh khiến dân chúng căm ghét. Mà nếu bỏ trốn thì sợ chết đói, chỉ có nước đi làm cướp tiếp. Nhưng qua một thời gian được đối đãi, chúng đã hiểu ra rằng, nếu chăm chỉ theo hắn thì còn có cơ hội đổi đời.

Vì thế, sau một thời gian ngắn được nhồi sọ, đám tù binh này trở thành một lũ tín đồ cuồng tín ăn phải thuốc lú. Hàng ngày chúng cầu nguyện và thề thốt trung thành với lý tưởng mà hắn vẽ ra.

Nhất là chúng lại được trả lương đầy đủ cùng với đãi ngộ tốt, so với đi cướp thì đúng là một trời một vực, cống rãnh đòi sóng sánh với đại dương.

Thế là 100 tên tù binh, qua một hồi kiểm tra và cải tạo đã được mang đi cùng đám nghĩa binh. Chỉ 3 tháng sau, sơn trại trên núi Hắc Lĩnh đã được xây dựng lại, còn đoàng hoàng to đẹp hơn trước.

——————————————-

Sau khi toán nghĩa binh rút lui thì 3 ngày sau, 4 cánh quân do các tù trưởng chỉ huy mới tiến vào núi Quỷ. Đứng trước khung cảnh hoang tàn, vắng vẻ của sơn trại, các tù trưởng mới cảm thấy có điều bất bình thường.

Thứ nhất là không thấy bóng tên phản loạn nào, cũng không biết chúng chạy đi đâu.

Thứ hai là dựa theo tàn tích sót lại thì số quân phản loạn không thể đến 2.000 người như Lò tù trưởng báo cáo.

Thứ ba là không có kho báu, tài sản đáng giá gì của quân phản loạn để lại. Cả đến một cọng rau cũng không có. 

Thế là các tù trưởng vội vàng kéo nhau đi gặp Cầm đại chiến tướng để báo cáo. Khi thấy doanh trại của Đại chiến tướng tan hoang, người chết người bị thương vô số. Các tù trưởng mới biết, hóa ra là tráng binh của Đại chiến tướng đã đánh nhau vô cùng thảm thiết.

Sau một chiêu cuối cùng của quân phản loạn, Cầm đại chiến tướng cho án binh bất động, chỉ cho người phong tỏa khu rừng và phòng thủ doanh trại mà thôi.

Đến khi các tù trưởng cùng đến gặp mặt, Cầm đại chiến tướng mới biết, quân phản loạn đã bỏ chạy sạch không còn sót tên nào. 

Thế là Cầm đại chiến tướng nổi điên đập bàn đập ghế, chửi bới ầm ĩ. Đến cả đầu con hổ nhồi bông cũng bị đạp vỡ sọ. Khi cơn tức giận qua đi, Cầm đại chiến tướng vội mang theo toàn bộ bậu xậu cùng tiến lên núi Quỷ để tra xét

Đứng trước khu phế tích tan hoang, Cầm đại chiến tướng cho người lục soát khắp hang cùng ngõ hẻm, nhưng kết quả chỉ moi được 3 xác chết đang nằm trong mộ cùng một hố phân to tướng chưa kịp tẩu tán.

Cuối cùng, tìm kiếm chục ngày không đạt kết quả. Cầm đại chiến tướng đành phải họp bàn với các tù trưởng cho rút quân. 

Thế là sau 20 ngày tiến hành dẹp loạn, Cầm đại chiến tướng chịu tổn thất lớn nhất, chết hơn 800 người, bị thương vô số, lương thực quân trang bị cháy rụi. Trong khi đó chỉ giết chết được đối phương 3 người. Đến cả cơ hội đốt phá sơn trại quân phản loạn, nhằm phục hận cũng không làm được.

Cầm đại chiến tướng đành buồn rầu cho người thu thập tàn cuộc, nhặt nhạnh cả mấy ngọn lao, mũi tên, mảnh đá, mảnh gốm vỡ và mấy trăm viên bi sắt mang về Cầm Sơn Trấn để báo cáo lên Đại tù trưởng.

Trong căn nhà sàn to lớn của Đại tù trưởng, Cầm đại chiến tướng cùng các mưu sĩ báo cáo lại tình hình và trưng bày các tàn vật thu thập được. 

Đại tù trưởng nghe xong báo cáo thì giận tím mặt, chỉ muốn bạt tai cho nhị đệ là Cầm đại chiến tướng một cái cho bay hết hàm. Nhưng mà ngẫm lại thì giận cũng không làm gì được vì tổn thất vốn đã được tính trước, chỉ uất ức vì số quân chết gấp 300 lần đối phương, đã thế còn để cho chúng chạy mất dạng, không biết đang ở đâu.

Đại tù trưởng định phạt Đại chiến tướng, cách chức cho về nhà gánh phân tưới rau, nuôi bò chăn heo dưỡng lão thì một tên mưu sĩ vội đứng ra nói:

"Thưa Đại tù trưởng, đúng là Đại chiến tướng có tội, nhưng việc này cũng có nguyên nhân. Vì vậy, xin Đại tù trưởng khai ân không trách phạt Đại chiến tướng mà lấy việc này làm kinh nghiệm, sau này lập công chuộc tội. Vả lại sau chuyện này, Đại tù trưởng không nên tin ai ngoài Đại chiến tướng, vì người ngoài bao giờ cũng mang mưu đồ không nhỏ".

Đại tù trưởng nghe xong thì hơi nhăn mặt rồi lạnh lùng hỏi:

"Sầm mưu sĩ, ngươi nói như vậy phải chăng là muốn ta tha tội cho nhị đệ, hay ý ngươi muốn nói là từ nay, ta không nên tin các người nữa?".

Sầm mưu sĩ nghe vậy thì hơi giật mình, biết là mình nói hơi ngu nhưng vội chống chế:

"Thưa Đại tù trưởng, ý thuộc hạ là ngài không nên tin các tù trưởng khác hoặc những người nắm binh quyền mà không phải máu mủ ruột thịt của ngài. Thuộc hạ không có binh quyền, chỉ góp kế cho Đại tù trưởng ăn lương thôi nên sẽ luôn thật lòng ạ".

Cầm đại tù trưởng nghe thế thì cười nhếch mép rồi hỏi tiếp:

"Vậy nguyên nhân tổn thất lần này, theo ý của mưu sĩ là do đâu? Có phải là do ta quyết định bừa bãi không hả?".

Sầm mưu sĩ nghe nói vậy thì toát mồ hôi hột vội giải thích:

"Sao Đại tù trưởng lại nói như vậy, thuộc hạ cho rằng lần thua thiệt này là do lão Lò tù trưởng gây ra chứ không phải do Đại chiến tướng ạ".

"Hả, tại sao Sầm mưu sĩ lại nói như vậy?". Cầm đại tù trưởng hờ hững hỏi.

Sầm mưu sĩ nghe hỏi vậy thì bình tĩnh nói:

"Dạ, thưa Đại tù trưởng, đúng là như vậy. Lần dẹp loạn này là do chủ ý của Lò tù trưởng, lão ta vốn biết rõ nội tình bọn phản loạn nhưng cố tình nói sai sự thật. Chủ ý của lão là muốn quân của Đại tù trưởng thiệt hại nhằm mưu lợi riêng, chắc là lão có ý đồ gì đó không tốt ạ".

Cầm đại tù trưởng nghe thế thì hơi nhăn mày hỏi:

"Nếu Sầm mưu sĩ có chứng cứ thì nói rõ ra đi, còn định đặt điều vu khống, nói sai sự thật thì ta sẽ không để yên đâu".

Sầm mưu sĩ vội thề thốt rồi phân tích:

"Đại tù trưởng, thuộc hạ không dám nói dối hay đặt điều làm gì. Có Đại chiến tướng và các vị quân sư, chỉ huy ở đây làm chứng. Mọi người còn nhớ, Lò tù trưởng nói rằng bọn phản loạn có 2.000 quân không? Đấy là lão nói dối Đại tù trưởng, thực tế qua phân tích xác minh trên núi Quỷ chỉ có mấy cái nhà cháy, đủ chứa khoảng 100 tên là cùng".

"Cái ziề, lại có chuyện ấy sao?". Cầm đại tù trưởng trợn mắt thốt lên.

"Vâng. Trước lúc xuất quân, Hà đoàn trưởng của Hà Gia cũng có thắc mắc nhưng Lò tù trưởng còn bác đi, hai nữa còn thề thốt là bọn phản loạn có 2.000 quân. Lúc đó tất cả mọi người đều bị mắc lừa". Sầm mưu sĩ kể tiếp.

Cầm Đại tù trương nghe thế thì đập tay vào ghế đánh "rầm" rồi cáu kỉnh nói:

"Kể tiếp đi, còn gì nữa...?"

Sầm mưu sĩ lại phân tích tiếp:

"Chắc chắn là Lò tù trưởng đã biết bọn phản loạn chỉ có mấy chục đứa, nhưng sơn trại của chúng rất kiên cố, đã thế còn nhiều bẫy rập cùng hàng loạt vũ khí kỳ quái nên lão không muốn đánh dẹp. Vì thế lão lợi dụng chúng ta cho quân lên chết thay, chủ ý vừa muốn dẹp loạn, vừa có thể thu được các bí mật của bọn chúng. Đúng là lão muốn "ngồi mát ăn bát vàng", "cò ngao tranh chấp ngư ông hưởng lợi" ạ. Sau này lão nắm được các bí mật đó rồi thì lão có thể biến Lò Gia bản thành tường đồng vách sắt, bất khả xâm phạm, đến chúng ta cũng không làm gì được".

Nghe Sầm mưu sĩ phân tích, Cả Đại chiến tướng lẫn các quân sư, chỉ huy đang ngồi đều gật gù, dường như Sầm mưu sĩ nói rất có lý. Sầm mưu sĩ thấy vậy bèn nói tiếp:

"Vì thế, ngay trước trận chiến, Lò tù trưởng giả vờ hiến kế, nói là quân ta ít lương, cần phải đánh nhanh. Lại kể là bọn phản loạn chỉ biết ăn cướp rồi chạy, không có bản lĩnh gì. Sau cùng xui Đại chiến tướng xua quân làm nhiều đợt, lại đánh cả ban đêm không chết không ngừng. Trong khi đó, tráng binh Lò Gia lại được trang bị thớt che tên, che đá khiến cho thiệt hại rất ít. Hơn nữa chúng chỉ đến lưng chừng núi rồi tìm chỗ nấp mà không chịu xung phong. Điều đó chứng tỏ rằng lão đã biết được cách thức bọn phản loạn tấn công nhưng không chịu nói cho chúng ta chuẩn bị, đã thế còn dặn tráng binh của lão giả vờ đau bụng... Như vậy có phải là lão có ý đồ riêng hay không?".

Sầm mưu sĩ nói xong thì một gã quân sư cũng lên tiếng:

"Sầm huynh nói rất có lý, ta đã nghi ngờ từ lâu nhưng vẫn không đủ chứng cớ. Sau khi lên núi Quỷ, ta bèn để ý thằng Lò Tôn cùng Lò lão tam luôn thập thụt cùng nhau đi dò xét khắp nơi. Bọn chúng còn thu nhặt tàn vật như chúng ta, hai nữa hình như muốn tìm một cái gì đó... chắc là vũ khí kỳ quái của bọn phản loạn".

Cầm đại tù trưởng ngồi nghe mà mặt đỏ bừng bừng, chân tay run rẩy liên hồi như bị động kinh hoặc mắc bệnh parkinson cấp tính. Hồi lâu lão mới cố bình tĩnh mà hỏi một câu:

"Lô quân sư, Sầm mưu sĩ... Các ngươi liên tục nhắc đến vũ khí kỳ quái của bọn phản loạn, có biết đó là cái gì không và tại sao Lò tù trưởng lại muốn có nó?..."

Gã quân sư nghe hỏi vậy thì vội nói:

"Đại tù trưởng, mặc dù chúng thuộc hạ không rõ hình thù nhưng uy lực của nó thì tuyệt đối khủng bố. Thuộc hạ đã cho người dò xét nhưng không biết được một tí thông tin nào, chỉ nhặt được một số tàn vật mang về trình Đại tù trưởng xem thôi ạ".

Dứt lời, gã quay người sai bọn tráng binh mang tàn vật thu thập được tại sườn núi cho Cầm đại tù trưởng xem, đồng thời kể một số thông tin mà bọn tráng binh nói lại.

Cầm Đại tù trưởng xem các tàn vật, lão cầm mấy mũi tên nhọn lên ngắm nghía rồi nhăn mặt. Sau đó lại cầm mấy viên đá tròn như quả bưởi rồi lại nhặt một nắm bi sắt cỡ hạt nhãn lên lòng bàn tay. Càng xem, Đại tù trưởng càng toát mồ hôi hội. Cuối cùng lão nói:

"Kinh khủng, thứ vũ khí này nếu rơi vào tay hàng trăm tên phản loạn thì chúng sẽ càn quét sạch sẽ chúng ta, đến gà chó cũng không còn. Cũng may chúng chỉ có mấy chục tên, lại bị chúng ta để ý sớm, không thì sau này chúng nhiều lên thì chúng ta chết không có đất mà chôn".

Gã Lô quân sư nghe thế thì nói:

"Đúng như Đại tù trưởng nhận định. Sau khi cuộc chiến kết thúc, thuộc hạ mới ý thức được vấn đề này nên mới có quan sát. Nhất là phân tích tàn vật trên núi mới phát hiện ra thứ vũ khí này vốn rất to, nặng khó di chuyển, chỉ có thể để một chỗ cố định giúp cho việc phòng thủ, giống như mấy cái máy ném đá trên mặt tường thành vậy. Chắc chắn là lão Lò cũng biết điều này nên mới có ý đồ..."

Cầm đại tù trưởng nghe vậy thì lau mồ hôi trán rồi gật gù:

"Có lẽ như vậy, mặc dù khó di chuyển nhưng uy lực của nó quá khủng bố đi. Về việc này, các ngươi phải giữ im lặng, không bàn luận lung tung khiến lão Lò sinh nghi. Hơn nữa, phải cử người theo dõi động tĩnh của lão. Thấy gì khả nghi thì lập tức báo cáo ta, nhất là về thứ vũ khí ấy nhé...".

Lập tức bọn quân sư, mưu sĩ, chỉ huy đang đứng vội "dạ" ran. Cầm đại chiến tướng cũng thở phào nhẹ nhõm, vừa lau mồ hôi trán vừa hỏi:

"Huynh trưởng, bây giờ nên thế nào? Việc lần này..."

Cầm đại tù trưởng thấy hỏi vậy thì giơ tay, ra ý không cần nói tiếp rồi nhẹ giọng nói:

"Việc này ta cho qua, chỉ khiến trách đệ hơi vội vàng, hấp tấp nhưng quyết lần sau không cho tái phạm. Còn việc của lão Lò, chúng ta âm thầm theo dõi, chắc chắn bọn phản loạn sẽ không để lão yên. Đến lúc lão gặp loạn, chúng ta chỉ cần... ha ha ha".

Cười xong, Cầm đại tù trưởng làm động tác cầm dao, xỉa một cái vô hình vào sườn Cầm đại chiến tướng. Đại chiến tướng hiểu ý mà cười ngất, lòng thầm nói:

"Bọn Lò Côn, Lò Khôn, Lò Tôn chết tiệt, dám lừa quân ta tổn thất thảm trọng. Sắp tới hãy chuẩn bị mấy cái quan tài mà chui vào đi... ha ha ha".

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro