V.Vtrò of đ/tr g/c & CM XH đối với sự vận động,phát triển of XH có đối kháng g/c

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

V. Vai trò của đấu tranh giai cấp và CM XH đối với sự vận động, phát triển của XH có đối kháng giai cấp

1. Giai cấp và vai trò của đấu tranh giai cấp đối với sự phát triển của XH có đối kháng giai cấp

a. Khái niệm giai cấp

Trong tác phẩm Sáng kiến vĩ đại, V.I.Lênin đã đưa ra định nghĩa giai cấp như sau: “người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống SX XH nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thì những quan hệ này được pháp luật thừa nhận) đối với những tư liệu SX, về vai trò của họ trong tổ chức LĐ XH, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải XH ít hoặc nhiều mà họ được hưởng”.

Theo định nghĩa trên đây, thực chất sự phân hóa những con người trong một cộng đồng XH thành các giai cấp khác nhau, đối lập nhau là do có sự khác nhau và đối lập nhau về địa vị của họ trong một chế độ kinh tế - XH nhất định, do đó tất yếu dẫn đến việc “tập đoàn này có thể chiếm đoạt được LĐ của tập đoàn khác”. Do vậy, Lênin khẳng định: “Giai cấp là những tập đoàn người, mà tập đoàn này có thể chiếm đoạt LĐ của tập đoàn khác, do các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế XH nhất định”. Thực chất của sự phân hóa giai cấp trong XH chính là sự phân hóa những con người trong một cộng đồng XH thành những kẻ bóc lột và những người bị bóc lột. Thực tế lịch sử nhân loại mấy ngàn năm qua đã chứng minh điều này, đó là sự phân hóa những con người trong cộng đồng XH thành các giai cấp đối kháng nhau: chủ nô với nô lệ trong lịch sử thời cổ đại, chúa đất và nông nô thời trung cổ, tư sản và vô sản từ thời cận đại đến nay.

Thực tiễn lịch sử cũng đã chứng minh: giai cấp nào nắm được tư liệu SX chủ yếu của XH thì cũng đồng thời có khả năng chiếm được địa vị làm chủ quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước, do đó có khả năng khách quan trở thành giai cấp thống trị XH, thực hiện được việc chiếm đoạt LĐ của giai cấp khác và duy trì được tình trạng tương đối ổn định của XH trong điều kiện có đối kháng giai cấp.

Khái niệm giai cấp không đơn thuần là một khái niệm của khoa học chính trị, đó còn là một khái niệm phản ánh mối quan hệ khách quan trong lĩnh vực kinh tế cũng như giữa lĩnh vực kinh tế và lĩnh vực chính trị của XH; phản ánh mối quan hệ kinh tế - chính trị giữa các tập đoàn người trong một điều kiện lịch sử nhất định. Đó là mối quan hệ không chỉ có sự khác biệt mà còn có tính chất đối lập của họ trên phương diện kinh tế và chính trị. Do vậy, việc phân tích những vấn đề về kết cấu chính trị cần phải gắn liền với việc phân tích kết cấu kinh tế của XH theo quan điểm lịch sử cụ thể.

Để phân tích và xử lý chính xác những vấn đề về kết cấu chính trị - XH không những cần nắm vững khái niệm giai cấp theo quan điểm của CN Mác - Lênin mà còn cần phải nắm vững khái niệm tầng lớp XH. Khái niệm tầng lớp XH thường được sử dụng để chỉ sự phân tầng, phân lớp, phân nhóm, giữa những con người trong cùng một giai cấp theo địa vị và sự khác biệt cụ thể của họ trong giai cáp đó như: tầng lớp công nhân làm thuê LĐ giản đơn, LĐ phức tạp, LĐ chuyên gia... Khái niệm này cũng còn được dùng để chỉ những nhóm người ngoài kết cấu các giai cấp trong một XH nhất định như: tầng lớp công thức, tri thức, tiểu nông... những tầng lớp này đều có những mối quan hệ nhất định với giai cấp này hay giai cấp khác trong XH.

b. Nguồn gốc giai cấp

Việc phát hiện ra sự tồn tại giai cấp, đối kháng và đấu tranh giai cấp không phải là phát hiện mới trong lý luận của CN Mác – Lênin. Một trong những phát hiện mới và cơ bản của CN Mác – Lênin chính là ở chỗ chỉ ra rằng sự tồn tại của giai cấp, đối kháng và đấu tranh giai cấp không phải là bản tính của con người, cũng không phải là sự tiền định mà chỉ là hiện tượng có tính lịch sử. Theo C.Mác: “Sự tồn tại của các giai cấp chỉ gắn liền với những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định của SX”.

Nguồn gốc trực tiếp của sự phân hóa giai cấp trong XH chính là do sự ra đời và tồn tại của chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu SX, đặc biệt là đối với những tư liệu SX chủ yếu của XH, bởi vì chỉ có trong điều kiện đó mới có khả năng khách quan làm phát sinh và tồn tại sự phân biệt địa vị của các tập đoàn người trong quá trình SX XH. Do đó, dẫn tới khả năng tập đoàn này có thể chiếm đoạt LĐ thặng dư của tập đoàn khác. Tuy nhiên, chỉ có chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu SX vẫn chưa đủ để làm phát sinh giai cấp trong XH nếu chưa có sự phát triển của LLSX đến một mức độ làm cho năng suất LĐ tăng lên, do đó làm xuất hiện thời gian LĐ thặng dư của XH, biểu hiện thành sự dư thừa của cải tương đối của XH. Hơn nữa, sự tồn tại của chế độ chiếm hữu tư nhân hay cộng đồng XH về tư liệu SX không phải theo ý muốn chủ quan mà là tuân theo quy luật khách quan - quy luật QHSX phù hợp với trình độ SX của LLSX. Vì vậy, nguồn gốc sâu xa của sự phân hóa giai cấp trong XH chính là do tình trạng phát triển nhưng chưa đạt tới trình độ XH hóa cao của LLSX. Khi LLSX đã đạt trình độ XH hóa cao thì chính nó lại là nguyên nhân khách quan của việc xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu SX và do đó dẫn tới sự xóa bỏ giai cấp, đối kháng và đấu tranh giai cấp trong XH. Đó là vấn đề thực tiễn của CN XH và đặc biệt là của XH XH công sản CN trong tương lai.

Sự hình thành và phát triển giai cấp trong lịch sử có thể diễn ra với những hình thức, mức độ khác nhau ở các cộng đồng XH khác nhau. Điều đó tùy thuộc sự tác động cụ thể của các nhân tố khách quan và chủ quan đến tiến trình vận động, phát triển của mỗi cộng đồng người. Tuy nhiên, có thể khái quát quá trình hình thành, phát triển giai cấp ở các cộng đồng người trong lịch sử ở hai hình thức cơ bản. Đó là: sự hình thành, phát triển giai cấp diễn ra chủ yếu dưới sự tác động của nhân tố bạo lực và sự hình thành, phát triển giai cấp diễn ra chủ yếu với sự tác động của quy luật kinh tế phân hóa những người SX hàng hóa trong nội bộ cộng đồng XH. Ngoài ra, trong thực tế lịch sử còn diễn ra quá trình tác động đồng thời của cả hai nhân tố đó.

c. Vai trò của đấu tranh giai cấp đối với sự vận động, phát triển của XH có đối kháng giai cấp

Theo V.I.Lênin, khái niệm đấu tranh giai cấp dùng để chỉ “cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức và LĐ chống bọn có đặc quyền đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay những người vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản”. Theo khái niệm này, thực chất của đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh của những người LĐ làm thuê, những người nô lệ, bị áp bức về chính trị – XH và bị bóc lột về kinh tế chống lại sự áp bức và bóc lột của nó; tức là nhằm giải quyết những vấn đề mâu thuẫn lợi ích kinh tế và chính trị XH giữa giai cấp thống trị và bị thống trịở những phạm vi và mức độ khác nhau.

Tùy theo những điều kiện lịch sử khác nhau, các cuộc đấu tranh giai cấp trong XH có thể được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, với những phạm vi và trình độ khác nhau như: đấu tranh kinh tế, đấu tranh tư tưởng, đấu tranh chính trị... trong thực tế lịch sử, cuộc đấu tranh giai cấp có thể còn mang những hình thức đấu tranh dân tộc, tôn giáo, văn hóa và có thể có nhiều hình thức đa dạng khác.

Để khống chế và đàn áp những cuộc đấu tranh giai cấp của những người LĐ làm thuê, những người nô lệ nhằm duy trì và thực hiện sự bóc lột, các giai cấp thống trị trong lịch sử (giai cấp chủ nô, giai cấp chúa đất phong kiến, giai cấp tư sản) tất yếu phải sử dụng đến sức mạnh bạo lực có tổ chức - đó là nhà nước với những đội vũ trang đặc biệt và hệ thống pháp luật nhằm duy trì trật tự của sự thống trị giai cấp. Vì vậy, vấn đề chính quyền nhà nước, quyền lực nhà nước là vấn đề trung tâm và cơ bản của cuộc đấu tranh giai cấp trong XH. Bất cứ cuộc đấu tranh giai cấp nào nếu chưa giải quyết được vấn đề chiếm giữ quyền lực nhà nước thì chưa thể giải quyết được vấn đề căn bản nhất của cuộc đấu tranh giai cấp.

Tuy nhiên, không phải mọi cuộc đấu tranh giai cấp đều xác định vấn đề chính quyền nhà nước, quyền lực nhà nước là vấn đề trung tâm, chỉ có sự phát triển của đấu tranh giai cấp đạt tới trình độđấu tranh chính trị thì vấn đềđó mới trở thành vấn đề trung tâm và cơ bản của nó. Đó cũng là vấn đề cơ bản của mọi CM XH với tư cách là đỉnh cao của sự phát triển đấu tranh giai cấp.

Sự ra đời và tồn tại của nhà nước là kết quả của đấu tranh giai cấp trong XH có đối kháng giai cấp. Khi các mâu thuẫn XH đã bị đẩy đến chỗ không thể giải quyết được thì tất yếu giai cấp thống trị cần đến sức mạnh bạo lực đặc biệt để duy trì XH trong vòng một “trật tự” theo ý chí của nó, thực hiện lợi ích của nó. Sự ra đời và tồn tại của nhà nước không phải để giải quyết mâu thuẫn mà là để duy trì trật tự XH trong điều kiện mâu thuẫn không thể giải quyết được. Trong lịch sử trên hai ngàn năm qua đã từng tồn tại các kiểu nhà nước: nhà nước chủ nô thời cổ đại, nhà nước phong kiến thời trung cổ và nhà nước tư sản ở các nước cơ bản từ thời cận đại đến nay. Đây là những kiểu nhà nước đúng với nghĩa đen của nó, tức là công cụ bạo lực có tổ chức nhằm khống chế cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp của những người LĐ. Cho dù các hình thức của mỗi kiểu nhà nước đó có khác nhau, tên gọi khác nhau (hình thức quân chủ tập quyền hoặc phân quyền, quân chủ lập hiến, cộng hòa quý tộc, cộng hòa đại nghị, cộng hòa tổng thống...) nhưng bản chất giai cấp của chúng chỉ là một - đó là công cụ chuyên chính giai cấp của các giai cấp bóc lột đối với nô lệ hay LĐ làm thuê. Khác với các kiểu nhà nước nói trên, nhà nước chuyên chính vô sản là nhà nước kiểu mới, là “nửa nhà nước”, “nhà nước không còn nguyên nghĩa đen của nó”, tồn tại trong thời kỳ quá độ lên CN XH là công cụ bạo lực có tổ chức và công cụ quản lý kinh tế - XH của giai cấp công nhân và nhân dân LĐ. Đấu tranh giai cấp giữ vai trò là một trong những phương thức, LĐ của sự tiến bộ, phát triển XH trong điều kiện XH có sự phân hóa thành đối kháng giai cấp.

Theo quan điểm của CN duy vật lịch sử, lịch sử nhân loại từ khi có sự phân hóa giai cấp đến nay, về thực chất chỉ là lịch sử của những cuộc đấu tranh giai cấp được biểu hiện dưới nhiều hình thức đa dạng với những mức độ khác nhau và mang sắc thái khác nhau. Đó là cuộc đấu tranh của những người nô lệ chống lại ách áp bức của giai cấp chủ nô; cuộc đấu tranh của những người nông nô, những người nông dân làm thuê chống lại sự áp bức và bóc lột của bọn chúa đất, địa chủ; cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê chống lại ách áp bức và bóc lột của giai cấp tư sản. Kết quả cuối cùng của những cuộc đấu tranh đó đều dẫn tới sự ra đời của phương thức SX mới thông qua đỉnh cao của nó là những cuộc CM XH.

Như vây, trong điều kiện XH có đối kháng giai cấp thì sự phát triển của XH chỉ có thể thực hiện được thông qua những cuộc đấu tranh giai cấp nhằm giải quyết những mâu thuẫn đối kháng trong đời sống kinh tế và chính trị - XH. Trong trường hợp này, đấu tranh giai cấp không chỉ là động lực của sự phát triển lịch sử mà còn là phương thức của sự tiến bộ và phát triển XH.

Theo lý luận hình thái kinh tế - XH, phương thức và động lực cơ bản nhất của sự tiến bộ, phát triển của XH là sự vận động của mâu thuẫn trong phương thức SX, trong bản thân nền SX vật chất của XH, nhưng trong điều kiện XH có sự phân hóa giai cấp thì mâu thuẫn đó lại được bộc lộ và biến thành mâu thuẫn đối kháng giữa các giai cấp trong đời sống chính trị - XH. Trong trường hợp này, mâu thuẫn đối kháng trong đời sống kinh tế chỉ có thể giải quyết được thông qua việc giải quyết mâu thuẫn đối kháng giai cấp trên lĩnh vực chính trị - XH. Như vậy, mẫu thuẫn giai cấp là đấu tranh giai cấp đã trở thành cơ chế chính trị - XH để giải quyết mâu thuẫn trong phương thức SX, thực hiện nhu cầu khách quan của sự phát triển của LLSX, thúc đẩy sự phát triển của XH.

2. CM XH và vai trò của nó đối với sự phát triển của XH có đối kháng giai cấp

a. Khái niệm CM XH và nguyên nhân của nó

Theo nghĩa rộng, CM XH là sự biến đổi có tính bước ngoặt và căn bản về chất trong toàn bộ các lĩnh vực của đời sống XH, là phương thức chuyển từ một hình thái kinh tế - XH lỗi thời lên một hình thái kinh tế - XH mới ở trình độ phát triển cao hơn. Theo nghĩa hẹp, CM XH là việc lật đổ một chế độ chính trịđã lỗi thời và thiết lập một chế độ chính trị tiến bộ hơn của giai cấp CM.

Trong XH có giai cấp đối kháng, CM XH được đặc trưng bằng việc giai cấp CM khởi nghĩa vũ trang dành chính quyền nhà nước, đồng thời tiến hành tổ chức, xây dựng và sử dụng chính quyền nhà nước mới của nó để cải tạo căn bản, toàn diện mọi lĩnh vực của đời sống XH, tức là xây dựng một hình thái kinh tế - XH mới. Do đó, có thể thấy vấn đề chính quyền nhà nước nhất định là vấn đề cơ bản của mọi cuộc CM. Đồng thời, cuộc CM nào cũng phải trải quan hai giai đoạn: giai đoạn dành chính quyền và giai đoạn tổ chức xây dựng chính quyền mới, xây dựng XH mới.

CM XH khác với cải cách. Khái niệm cải cách dùng để chỉ những cuộc cải biến diễn ra trên một hay một số lĩnh vực của đời sống XH, trong phạm vi một hình thái kinh tế - XH nhằm hoàn thiện hình thái kinh tế - XH đó, như: cải cách thể chế kinh tế, cải cách nền hành chính quốc gia, cải cách nền giáo dục... Khái niệm CM XH cũng khác với khái niệm đảo chính. Khái niệm đảo chính dùng để chỉ những sự biến tranh giành địa vị quyền lực nhà nước giữa các lực lượng chính trị (thường là trong cùng một giai cấp) và với chủ trương không thay đổi bản chất chế độ hiện thời, nó có thểđược tiến hành dưới hình thức bạo lực, phi bạo lực vũ trang.

Nguyên nhân sâu xa của CM XH là từ mâu thuẫn gay gắt trong bản thân nền SX vật chất của XH, tức mâu thuẫn gay gắt giữa nhu cầu khách quan của sự phát triển LLSX với sự kìm hãm của QHSX đã trở nên lỗi thời mà không một cuộc cải cách kinh tế hay chính trị nào có thể giải quyết được. Mâu thuẫn đó biểu hiện về mặt chính trị - XH thành cuộc đấu tranh giai cấp và chính sự phát triển của cuộc đấu tranh giai cấp này đã tất yếu dẫn đến sự bùng nổ CM. Đây cũng chính là nguyên nhân khách quan của các cuộc CM XH. Ngoài ra, mỗi cuộc CM XH còn có nguyên nhân chủ quan của nó đó là sự phát triển về nhận thức và tổ chức của giai cấp CM, tức giai cấp đại biểu cho phương thức SX mới tiến bộ hơn. Từ đó tạo ra sự phát triển của phong trào đấu tranh giai cấp từ tự phát đến tự giác và khi có sự kết hợp chín muồi của các nhân tố khách quan và chủ quan, tức tạo ra được thời cơ CM, thì khi đó tất yếu CM sẽ bùng nổ và có khả năng thành công.

b. Vai trò của CM XH đối với sự phát triển XH có đối kháng giai cấp

CM XH giữ vai trò là một trong những phương thức, động lực của sự phát triển XH. Không có những cuộc CM XH trong lịch sử thì không thể diễn ra quá trình thay thế hình thái kinh tế - XH này bằng một hình thái kinh tế - XH mới cao hơn. Với ý nghĩa đó mà C.Mác nhận định rằng: các cuộc CM XH là những “đầu tầu của lịch sử”, là phương thức thực hiện sự phát triển của các hình thái kinh tế - XH. Mặt khác, chính nhờ những cuộc CM XH mà các mâu thuẫn cơ bản của đời sống XH trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa... được giải quyết triệt để, từ đó tạo ra động lực cho sự tiến bộ và phát triển của XH. Trong những thời kỳ CM, năng lực sáng tạo của quần chúng nhân dân được phát huy cao độ, có thể sáng tạo ra lịch sử mới với một sức mạnh phi thường: “một ngày bằng hai mươi năm”.

Lịch sự nhân loại đã chứng minh đầy đủ và rõ nét vai trò của các cuộc CM XH đã từng diễn ra trong lịch sử mấy nghìn năm quá. Đó là: cuộc CM thực hiện bước chuyển từ hình thái kinh tế - XH nguyên thủy lên hình thái kinh tế - XH chiếm hữu nô lệ; cuộc CM xóa bỏ chế độ nô lệ và thay thế nó bằng chế độ phong kiến; xác lập chế độ tư bản CN; cuộc CM vô sản thực hiện việc xóa bỏ chế độ chuyên chính tư bản, xác lập chế độ XH CN - đây là cuộc CM vĩ đại nhất, sâu sắc nhất trong lịch sử nhân loại, làm thay đổi hoàn toàn bản chất chế độ chính trị XH cũ, xóa bỏ triệt để nguồn gốc chế độ tư hữu sản sinh đối kháng giai cấp đã từng tồn tại hàng ngàn năm trong lịch sử nhân loại.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#triết