VI.Quan đ' of CN duy vật lsử về con người & vtrò s/tạo lsử of quần chúng nh/dân

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

VI. Quan điểm của CN duy vật lịch sử về con người và vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân

1. Con người và bản chất của con người

a. Khái niệm con người

Con người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính XH; có sự thống nhất biện chứng giữa hai phương diện tự nhiên và XH.

Tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự hình thành, tồn tại và phát triển của con người chính là giới tự nhiên. Vì vậy, bản tính tự nhiên là một trong những phương diện cơ bản của con người, loài người. Do vậy, việc nghiên cứu, khám phá khoa học về cấu tạo tự nhiên và nguồn gốc tự nhiên của con người là cơ sở khoa học quan trọng để con người hiểu biết về chính bản thân mình, tiến đến làm chủ bản thân mình trong mọi hành vi và hoạt động sáng tạo ra lịch sự của nó, tức lịch sử nhân loại.

- Bản chất tự nhiên của con người được phân tích từ hai góc độ sau đây:

+ Thứ nhất, con người là kết quả của quá trình tiến hóa và phát triển lâu dài của giới tự nhiên. Cơ sở khoa học của kết luận này đã được chứng minh bằng toàn bộ sự phát triển của CN duy vật và khoa học tự nhiên, đặc biệt là học thuyết của Đácuyn về sự tiến hóa của các loài.

+ Thứ hai, con người là một bộ phận của giới tự nhiên và đồng thời giới tự nhiên cũng “là thân thể vô cơ của con người”. Do đó, những biến đổi của giới tự nhiên và tác động của quy luật tự nhiên trực tiếp hoặc gián tiếp thường xuyên quy định sự tồn tại của con người và XH loài người, nó là môi trường trao đổi vật chất giữa con người và giới tự nhiên; ngược lại, sự biến đổi và hoạt động của con người, loài người luôn luôn tác động trở lại môi trường tự nhiên, làm biến đổi môi trường đó. Đây chính là mối quan hệ biện chứng giữa sự tồn tại của con người, loài người và các tồn tại khác của giới tự nhiên.

Tuy nhiên, con người không đồng nhất với các tồn tại khác của giới tự nhiên, nó mang đặc tính XH bởi vì mỗi con người với tư cách là “người” chính là xét trong mối quan hệ của các cộng đồng XH, đó là các cộng đồng: gia đình, giai cấp, quốc gia, dân tộc, nhân loại... Vì vậy, bản tính XH nhất định phải là một phương diện khác của bản tính con người, hơn nữa đây là bản tính đặc thù của con người.

- Bản tính XH của con người được phân tích từ các giác độ sau đây:

+ Một là, xét từ giác độ nguồn gốc hình thành, loài người không phải chỉ có nguồn gốc từ sự tiến hóa, phát triển của vật chất tự nhiên mà còn có nguồn gốc XH của nó, mà trước hết và cơ bản nhất là nhân tố LĐ. Chính nhờ nhân tố LĐ mà con người có khả năng vượt qua loài động vật để tiến hóa và phát triển thành người. Đó là một trong những phát hiện mới của CN Mác - Lênin, nhờ đó có thể hoàn chỉnh học thuyết về nguồn gốc của loài người mà tất cả các học thuyết trong lịch sử đều chưa có lời giải đáp đúng đắn và đầy đủ.

+ Hai là, xét từ giác độ tồn tại và phát triển, thì sự tồn tại của loài người luôn luôn bị chi phối bởi các nhân tố XH và các quy luật XH. XH biến đổi thì mỗi con người cũng có sự thay đổi tương ứng. Ngược lại, sự phát triển của mỗi cá nhân lại là tiền đề cho sự phát triển của XH. Ngoài mối quan hệ XH thì mỗi con người chỉ tồn tại với tư cách là một thực thể sinh vật thuần túy, không thể là “con người” với đầy đủ ý nghĩa của nó.

Hai phương diện tự nhiên và XH của con người tồn tại trong tính thống nhất, quy định lẫn nhau, tác động lẫn nhau, làm biến đổi lẫn nhau, nhờ đó tạo nên khả năng hoạt động sáng tạo của con người trong quá trình làm ra lịch sử của chính nó. Vì thế, nếu lý giải bản tính sáng tạo của con người đơn thuần chỉ từ giác độ bản tính tự nhiên hoặc chỉ từ bản tính XH thì đều là phiến diện, không triệt để và nhất định cuối cùng sẽ dẫn đến những kết luận sai lầm trong nhận thức và thực tiễn.

b. Bản chất của con người

Trong lịch sử tư tưởng nhân loại đã có nhiều quan niệm khác nhau về bản chất, “bản tính người” của con người nhưng về cơ bản những quan niệm đó thường là những quan niệm phiến diện, trừu tượng và duy tâm, thần bí. Trong tác phẩm Luận cương về Phoiơbắc, C.Mác đã phê phán vắn tắt những quan niệm đó và xác lập quan niệm mới của mình: “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt.

Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ XH. Hạn chế căn bản của quan niệm duy vật siêu hình, trực quan là đã trừu tượng hóa, tuyệt đối hóa phương diện tự nhiên của con người, thường xem nhẹ việc lý giải con người từ phương diện lịch sử XH của nó, do đó về căn bản chỉ thấy bản tính tự nhiên của con người. Khác với quan niệm đó, quan niệm duy vật biện chứng về con người trong khi thừa nhận bản tính tự nhiên của con người còn lý giải con người từ giác độ các quan hệ lịch sử XH, từ đó phát hiện bản tính XH của nó. Hơn nữa, chính bản tính XH của con người là phương diện bản chất nhất của con người với tư cách “người”, phân biệt con người với các tồn tại khác của giới tự nhiên. Như vậy, có thể định nghĩa con người là một thực thể tự nhiên nhưng đó là thực tự nhiên mang đặc tính XH. Vậy, bản chất của con người, xét trên phương diện tính hiện thực của nó, chính là “tổng hòa những quan hệ XH”, bởi vì XH chính là XH của con người, được tạo nên từ toàn bộ các quan hệ giữa người với người trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa...

Theo quan điểm duy vật biện chứng về bản chất XH của con người thì sự hình thành và phát triển của con người cùng những khả năng sáng tạo lịch sử của nó cần phải được tiếp cận từ giác độ phân tích và lý giải sự hình thành và phát triển của những quan hệ XH của nó trong lịch sử. Xét từ giác độ nhân chủng học, tức phương diện bản tính tự nhiên, “người da đen” vẫn chỉ là người da đen, nhưng chỉ trong quan hệ kinh tế - chính trị của XH chiếm hữu nô lệ anh ta mới bị biến thành “người nô lệ”, còn trong quan hệ kinh tế - chính trị XH XH CN, anh ta là “người tự do”, làm chủ và sáng tạo lịch sử. Như thế, không có một bản chất nô lệ cố hữu và bất biến của người da đen hay da trắng, nó là sản phẩm tất yếu của những quan hệ kinh tế, chính trị - XH trong những điều kiện lịch sử xác định, khi những quan hệ này thay đổi thì cũng tạo sự thay đổi bản chất của con người. Vì vậy, giải phóng bản chất con người cần phải hướng vào sự giải phóng những quan hệ kinh tế, chính trị, văn hóa, XH của nó, thông qua đó có thể phát huy khả năng sáng tạo lịch sử của con người.

Như vậy, không có con người phi lịch sử mà trái lại luôn gắn với những điều kiện hoàn cảnh lịch sử nhất định. Cần phải từ quan niệm như vậy mới có thể lý giải đúng đắn về khả năng sáng tạo lịch sử của con người. Sự hạn chế về năng lực sáng tạo lịch sử của những con người tiểu nông không thể lý giải từ bản tính tự nhiên của họ, trái lại cần phải được lý giải từ giác độ tính hạn chế về tinh thần phát triển quan hệ kinh tế, chính trị, văn hóa của XH tiểu nông. Như thế, con người, xét từ giác độ bản chất XH của nó, là sản phẩm của lịch sử, lịch sử sáng tạo ra con người trong chừng mực nào thì con người lại cũng sáng tạo ra lịch sử trong chừng mực đó. Đây là biện chứng của mối quan hệ giữa con người - chủ thể của lịch sử với chính lịch sử do nó tạo ra và đồng thời lại bị quy định bởi chính lịch sử đó. Từ đó có thể thấy, hạn chế cơ bản của quan niệm duy vật siêu hình về bản chất của con người chính là ở chỗ chỉ nhận thấy tính quyết định của hoàn cảnh lịch sử đối với con người mà không nhận thấy mối quan hệ sáng tạo của con người trong quá trình cải tạo hoàn cảnh và do đó cũng chính là cải tạo bản thân nó. C.Mác đã khẳng định: “Cái học thuyết duy vật CN cho rằng con người là sản phẩm của những hoàn cảnh và của giáo dục... cái học thuyết ấy quên rằng chính những con người làm thay đổi hoàn cảnh và bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục”. Trong tác phẩm Biện chứng của tự nhiên, Ph.Ăngghen cũng cho rằng: “Thú vật cũng có một lịch sử, chính là lịch sử nguồn gốc của chúng và lịch sử phát triển dần dần của chúng cho tới trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy không phải do chúng làm ra và trong chừng mực mà chúng có tham dự vào việc làm ra lịch sửấy thì điều đó diễn ra mà chúng không hề biết và không phải do ý muốn của chúng. Ngược lại, con người càng cách xa con vật, hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu thì con người lại càng tự mình làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức bấy nhiêu”.

Như vậy, với tư cách là thực thể XH, con người trong hoạt động thực tiễn, thông qua hoạt động thực tiễn, tác động vào giới tự nhiên, làm cải biến giới tự nhiên theo nhu cầu sinh tồn và phát triển của nó thì đồng thời con người cũng sáng tạo ra lịch sử của chính nó, thực hiện sự phát triển của lịch sửđó.

Từ quan niệm khoa học của CN Mác - Lênin về con người, có thể rút ra một số ý nghĩa phương pháp luận quan trọng sau đây:

Một là, để lý giải một cách khoa học những vấn đề về con người thì không thể chỉ đơn thuần từ phương diện bản tính tự nhiên của nó mà điều căn bản hơn, có tính quyết định phải là từ phương diện bản tính XH của nó, từ những quan hệ kinh tế - XH của nó.

Hai là, động lực cơ bản của sự tiến bộ và phát triển của XH chính là năng lực sáng tạo lịch sử của con người. Vì vậy, phát huy năng lực sáng tạo của mỗi con người, vì con người chính là phát huy nguồn động lực quan trọng thúc đẩy sự tiến bộ và phát triển của XH.

Ba là, sự nghiệp giải phóng con người, nhằm phát huy khả năng sáng tạo lịch sử của nó phải là hướng vào sự nghiệp giải phóng những quan hệ kinh tế - XH. Trên ý nghĩa phương pháp luận đó, có thể thấy một trong những giá trị căn bản nhất của cuộc CM XH CN chính là ở mục tiêu xóa bỏ triệt để các quan hệ kinh tế - XH áp bức và bóc lột, ràng buộc khả năng sáng tạo lịch sử của con người. Cuộc CM đó cũng thực hiện sự nghiệp giải phóng toàn nhân loại bằng phương thức xây dựng mối quan hệ kinh tế - XH XH CN và cộng sản CN nhằm xác lập và phát triển một XH mà tự do, sáng tạo của người này trở thành điều kiện cho tự do và sáng tạo của người khác. Đó cũng chính là thực hiện triết lý đạo đức nhân sinh cao đẹp nhất của CN cộng sản: “mỗi người vì mọi người; mọi người vì mỗi người”.

2. Khái niệm quần chúng nhân dân và vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân và cá nhân

a. Khái niệm quần chúng nhân dân

Con người là chủ thể sáng tạo ra lịch sử nhưng không phải theo phương thức hành vi đơn lẻ, rời rạc, cô độc của mỗi con người mà theo phương thức liên kết những con người thành sức mạnh cộng đồng XH có tổ chức, có lãnh đạo của những cá nhân hay các tổ chức chính trị, XH nhất định nhằm giải quyết các nhiệm vụ lịch sử trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa của XH - cộng đồng đó chính là quần chúng nhân dân.

Những lực lượng cơ bản tạo thành cộng đồng quần chúng nhân dân bao gồm: Thứ nhất, những người LĐ SX ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần - đó là hạt nhân cơ bản trong cộng đồng quần chúng nhân dân. Thứ hai, những bộ phận dân cư chống lại giai cấp thông trị áp bức, bóc lột, đối kháng với cộng đồng nhân dân. Thứ ba, những giai cấp, tầng lớp XH thúc đẩy sự tiến bộ XH thông qua hoạt động của mình, trực tiếp hoặc gián tiếp trên các lĩnh vực của đời sống XH.

Quần chúng nhân dân không phải là một cộng đồng bất biến mà trái lại, luôn thay đổi cùng với sự biến đổi của những nhiệm vụ lịch sử ở mỗi thời đại, mỗi giai đoạn phát triển nhất định. Tuy nhiên, lực lượng cơ bản nhất của mỗi cộng đồng nhân dân chính là những con người LĐ SX ra của cải vật chất và tinh thần cho sự sinh tồn và phát triển của XH. Ngoài ra, tùy theo mỗi điều kiện lịch sử xác định mà cộng đồng quần chúng nhân dân còn có thể bao gồm những lực lượng giai cấp và tầng lớp XH khác.

b. Vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân và vai trò của cá nhân trong lịch sử

Về căn bản, tất cả nhà tư tưởng trong lịch sử trước Mác đều không nhận thức đúng vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân. Về nguồn gốc lý luận, điều đó có nguyên nhân từ quan điểm duy tâm, tôn giáo và phương pháp siêu hình trong phân tích các vấn đề XH.

Theo quan điểm duy vật lịch sử, quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo chân chính ra lịch sử, lực lượng quyết định sự phát triển của lịch sử. Do đó, lịch sử trước hết và căn bản là lịch sử hoạt động của quần chúng nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - XH.

Vai trò chủ thể sáng tạo ra lịch sử, quyết định tiến trình phát triển lịch sử của quần chúng nhân dân được phân tích từ ba giác độ sau đây:

Thứ nhất, quần chúng nhân dân là LLSX cơ bản của mọi XH, trực tiếp SX ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của con người, của XH - đây là nhu cầu quan trọng bậc nhất của mọi XH ở mọi thời đại, mọi giai đoạn lịch sử.

Thứ hai, cùng với quá trình sáng tạo ra của cải vật chất, quần chúng nhân dân đồng thời cũng là lực lượng trực tiếp hay gián tiếp sáng tạo ra các giá trị tinh thần của XH; là lực lượng trực tiếp hay gián tiếp “kiểm chứng” các giá trị tinh thần đã được các thế hệ và các cá nhân sáng tạo ra trong lịch sử. Hoạt động của quần chúng nhân dân là cơ sở hiện thực có ý nghĩa quyết định và là cội nguồn phát sinh những sáng tạo văn hóa tinh thần của XH. Mọi giá trị sáng tạo tinh thần dù qua phương thức nào thì cuối cùng cũng là để phục vụ hoạt động của quần chúng nhân dân và nó chỉ có ý nghĩa hiện thực một khi được vật chất hóa bởi hoạt động thực tiễn của nhân dân.

Thứ ba, quần chúng nhân dân là lực lượng và động lực cơ bản của mọi cuộc CM và các cuộc cải cách trong lịch sử. Lịch sử nhân loại đã chứng minh rằng không có một cuộc CM hay cuộc cải cách XH nào có thể thành công nếu nó không xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng của đông đảo quần chúng nhân dân. Với ý nghĩa như vậy, có thể nói: CM là “ngày hội của quần chúng” và trong ngày hội đó, quần chúng nhân dân có thể sáng tạo ra lịch sử “một ngày bằng hai mươi năm”. Như vậy, những cuộc CM và cải cách XH cần đến lực lượng quần chúng nhân dân và sức sáng tạo của quần chúng nhân dân cũng cần có những cuộc các mạng và cải cách XH. Đó chính là biện chứng của quá trình phát triển XH.

Vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân không bao giờ có thể tách rời vai trò cụ thể của mỗi cá nhân, đặc biệt là vai trò của các cá nhân ở vị trí thủ lĩnh, lãnh tụ hay ở tầm vĩ nhân của cộng đồng nhân dân. Theo V.I.Lênin: “Trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào”.

Khái niệm cá nhân dùng để chỉ mỗi con người cụ thể sống trong một cộng đồng XH nhất định và được phân biệt với những con người khác thông qua tính đơn nhất và tính phổ biến của nó. Theo quan niệm đó, mỗi cá nhân là một chỉnh thể thống nhất, vừa mang tính cá biệt vừa mang tính phổ biến; là chủ thể của LĐ, của mọi quan hệ XH và của nhận thức nhằm thực hiện chức năng cá nhân và chức năng XH trong một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử.

Trong quá trình quần chúng nhân dân sáng tạo lịch sử mỗi các nhân tùy theo vị trí, chức năng, vai trò và năng lực sáng tạo cụ thể mà họ có thể tham gia vào quá trình sáng tạo lịch sử của cộng đồng nhân dân. Theo ý nghĩa ấy, mỗi các nhân của cộng đồng nhân dân đều “in dấu ấn” của nó vào quá trình sáng tạo lịch sử, mặc dù mức độ và phạm vi có thể khác nhau. Thế nhưng, để lại những dấu ấn sâu sắc nhất trong tiến trình lịch sử thường là những thủ lĩnh mà đặc biệt là những thủ lĩnh ở tầm vĩ nhân. Vĩ nhân là những cá nhân kiệt xuất trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, khoa học, nghệ thuật...

Trong CN Mác - Lênin, khái niệm lãnh tụ thường được dùng để chỉ những cá nhân kiệt xuất do phong trào CM của quần chúng nhân dân tạo nên, gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân. Để trở thành lãnh tụ của quần chúng nhân dân, được quần chúng nhân dân tín nhiệm, lãnh tụ phải là người có những phẩm chất cơ bản sau đây: Một là, có tri thức khoa học uyên bác, nắm bắt được xu thế vận động, phát triển của lịch sử. Hai là, có năng lực tập hợp quần chúng nhân dân vào việc giải quyết những nhiệm vụ lịch sử, thúc đẩy sự tiến bộ và phát triển của lịch sử. Ba là, gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân, hi sinh vì lợi ích của quần chúng nhân dân.

Bất cứ một thời kỳ nào, một cộng đồng XH nào, nếu lịch sử đặt ra những nhiệm vụ cần giải quyết thì từ trong phong trào quần chúng nhân dân, tất yếu sẽ xuất hiện những lãnh tụ đáp ứng nhiệm vụ đó.

Như vậy, tuyệt đối hóa vai trò của quần chúng nhân dân mà bỏ qua vai trò của cá nhân, hoặc tuyệt đối hóa vai trò của cá nhân, thủ lĩnh, lãnh tụ, vĩ nhân mà xem thường vai trò của quần chúng nhân dân đều là không biện chứng trong nghiên cứu về lịch sử và do đó không thể lý giải chính xác chính xác tiến trình vận động, phát triển của lịch sử nhân loại nói chung cũng như mỗi cộng đồng XH nói riêng.

Với vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân phụ thuộc vào các điều kiện khách quan và chủ quan. Đó là: trình độ phát triển của phương thức SX, trình độ nhận thức của mỗi cá nhân, mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp hay lực lượng XH, trình độ tổ chức XH, bản chất của chế độ XH... Do vậy, việc phân tích vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân cần phải đứng trên quan điểm toàn diện, phát triển và lịch sử - cụ thể.

Lý luận của CN Mác – Lênin về vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân và vai trò của các cá nhân đối với tiến trình lịch sửđã cung cấp một phương pháp luận khoa học quan trọng cho hoạt động nhận thức và thực tiễn:

- Thứ nhất, việc lý giải một cách khoa học về vai trò quyết định lịch sử của quần chúng nhân dân đã xóa bỏđược sai lầm của CN duy tâm đã từng thống trị lâu dài trong lịch sử nhận thức về động lực và lực lượng sáng tạo ra lịch sử XH loài người. Đồng thời, đem lại một phương pháp luận khoa học trong việc nghiên cứu và nhận định lịch sử cũng như việc nghiên cứu và đánh giá vai trò của mỗi cá nhân, thủ lĩnh, vĩ nhân, lãnh tụ trong cộng đồng XH.

- Thứ hai, lý luận về vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân đã cung cấp một phương pháp luận khoa học để các đảng cộng sản phân tích các lực lượng XH, tổ chức xây dựng lực lượng quần chúng nhân dân trong công cuộc CM XH CN. Đó là, sự liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức, đặt dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản, trên cơ sở đó tập hợp mọi lực lượng có thể nhằm tạo ra động lực to lớn trong sự nghiệp đưa CM XH CN đi tới thắng lợi cuối cùng.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#triết