Cơ sở văn hóa việt nam

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Nội dung: Nhận xét chung, đề cương, sản phẩm nhóm

I. Nhận xét chung

- Học online trên LMS

- Môn này khó thì không khó lắm nhưng phải chịu đầu tư vào 2 cái: 

+ Thứ nhất: làm dự án. Chọn chủ đề thì nó gần gũi một tí, đi xa quá thì mệt. Nên đi từ sớm để có tư liệu viết vì ở đó người ta thường có nhiều sách báo thông tin không có trên mạng. Ít nhất là 2 tuần trước khi nộp. 

+ Thứ 2: Học sách giáo khoa và tra google. Cứ sách giáo khoa mà học thì ăn chắc 8, còn lại luyện trên quizzlet bao trúng.

- NHỚ: Chụp màn hình hoặc tải lưu slide vào không cuối kỳ cô xóa hết đấy xin mỏi mồm không cho đâu.

II. Sản phẩm dự án

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ - ĐHQGHN

BỘ MÔN NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

------------------------------

BÀI TẬP THỰC TẾ

MÔN CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM

Học kỳ 2 năm học 2022 – 2023

Đề tài: Nghệ thuật kiến trúc của Hoàng Thành Thăng Long

Danh sách nhóm

STT

MSSV

Họ và tên

STT theo ca

Ghi chú

1

22040603

Dương Minh Hằng

207


2

22040604

Nguyễn Ngọc Khanh

287


3

22040445

Vũ Hoàng Lan

302


4

22040517

Phan Đào Khánh Linh

355


5

22040588

Lê Như Ngọc

436


6

22040591

Nguyễn Thị Minh Thùy

565


7

22040592

Nguyễn Thị Khánh Vân

650

0377957687,

Nhóm trưởng

Hà Nội, ngày 7 tháng 6 năm 2023

NHẬT KÍ LÀM VIỆC NHÓM

Thời gian

Nội dung

Thành viên có mặt

Thành viên vắng mặt

Lý do vắng

7/3

Thảo luận chọn đề tài

7/7

0


16/5

Phân công công việc đi thực tế

7/7

0


17/5

Đi thực tế

7/7

0


16/5

Phân công viết báo cáo

Như Ngọc: Mở đầu và kết luận

Linh và Thùy: Đặc sắc nghệ thuật kiến trúc

Lan và Khanh: So sánh kiến trúc Hoàng Thành Thăng Long và Kinh thành Huế

Vân: Nguồn gốc lịch sử xây dựng

Hằng: So sánh mái và bậc thềm rồng

7/7

0


3/6

Duyệt nội dung và chỉnh sửa

7/7

0


6/6

In và ký tên

7/7

0


MỤC LỤC

A. PHẦN NỘI DUNG

PHẦN MỞ ĐẦU

Lý do chọn đề tài

Công trình kiến trúc vẫn luôn là một yếu tố nổi bật khi nhắc đến văn hóa Việt Nam. Từ xa xưa đến nay, các công trình kiến trúc của Việt Nam luôn thể hiện được bản sắc văn hóa, con người của dân tộc Việt Nam bởi đó là nơi diễn ra các hoạt động sinh hoạt chính của con người. Các công trình kiến trúc về hoàng thành xưa là nơi làm việc của quan lại trong triều; là nơi ở của vua và các cung tần, mỹ nữ; và vòng ngoài cùng là nơi hội tụ của thần dân. Nhắc đến công trình kiến trúc nghệ thuật nổi bật của Việt Nam, không thể nào không nhắc đến Hoàng Thành Thăng Long - quần thể di tích gắn liền với lịch sử kinh thành Thăng Long. Được xây dựng từ thời Bắc thuộc, trải qua hàng nghìn năm tu bổ, phát triển dưới các triều đại nhà Lý, Trần, Lê, Mạc và Nguyễn (1010 - 1945), giờ đây Hoàng Thành Thăng Long chính là điểm đến để tìm hiểu lịch sử nghìn năm vang vọng của dân tộc.

Lịch sử dân tộc luôn là niềm tự hào vô cùng thiêng liêng đối với mỗi người dân Việt Nam, việc tìm hiểu, học hỏi kĩ lịch sử đất nước một phần vừa là trách nhiệm vừa là quyền lợi của mọi người. Việc nghiên cứu về công trình kiến trúc đồ sộ của Hoàng Thành Thăng Long - di sản văn hiến hàng đã trải qua hơn một thiên niên kỷ không chỉ giúp các thế hệ trẻ ngày nay có hiểu biết về thời gian vừa khó khăn, vừa huy hoàng của ông cha ta mà còn giúp quảng bá niềm tự hào của Việt Nam ra đến thế giới.

Mục đích nghiên cứu

- Tìm hiểu lịch sử xây dựng, đặc sắc nghệ thuật xây dựng công trình kiến trúc, xu hướng nghệ thuật chung của thời kỳ xưa.

- So sánh điểm giống và khác nhau giữa Hoàng Thành Thăng Long với Hoàng thành Huế.

- Sự khác biệt, sự thay đổi của Hoàng Thành Thăng Long theo thời gian. Bên cạnh đó nhận thức được giá trị lịch sử, văn hóa, thẩm mỹ.

- Phát huy truyền thống giá trị, nét đẹp văn hóa xuất phát từ lịch sử nghìn năm văn hiến, chống giặc đầy tự hào của dân tộc Việt Nam.

- Tuyên truyền, tích cực quảng bá rộng rãi không chỉ đối với sinh viên Đại học Ngoại Ngữ - ĐHQG Hà Nội, sinh viên, thế hệ trẻ Việt Nam mà với toàn thể các bạn sinh viên, các bạn trẻ trên thế giới có mong muốn, nguyện vọng tìm hiểu về văn hóa, về lịch sử và kiến trúc Việt Nam.

Đối tượng và phạm vị nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: Hoàng Thành Thăng Long.

Phạm vi nghiên cứu: đặc sắc nghệ thuật về công trình kiến trúc.

Phương pháp nghiên cứu

Dựa vào các bài báo, các nguồn thông tin chính thức về Hoàng thành Thăng Long để phân tích, tìm hiểu.

Dựa trên trải nghiệm thực tế của cả nhóm đến trực tiếp địa điểm để quan sát

Dựa vào đặc điểm công trình kiến trúc của các thời kỳ khác để so sánh, làm nổi bật và thấy được đặc điểm tiêu biểu của nghệ thuật xây dựng Hoàng thành.

PHẦN NỘI DUNG

Nguồn gốc và lịch sử xây dựng

Quá trình xây dựng

Được khởi công xây dựng từ thời tiền Thăng Long, thế kỷ VII, quá trình tồn tại lâu bền trên dòng thời gian của Hoàng Thành Thăng Long gắn bó mật thiết với lịch sử của Kinh thành Thăng Long. Nền móng ban đầu của Hoàng Thành Thăng Long là một thành quách được xây dựng bởi tướng Nhà Đường là Cao Điền dưới thời nhà Đường, tọa lạc tại Tống Bình, sau được đổi ông đổi tên thành Đại La, trung tâm của An Nam Đô Hộ phủ.

Đến thời Lý - Trần từ thế kỷ XI đến XIV, năm 1010, vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về Đại La. Kinh thành sau đó cũng được đổi tên thành kinh thành Thăng Long. Vua bắt đầu cho xây thành với 4 cửa: Tường Phù (Đông), Quảng Phúc (Tây), Đại Hưng (Nam), Diệu Đức (Bắc) và các tòa nhà, kiến trúc. Trong vòng 1 năm (đến năm 1011), các kiến trúc của thành về cơ bản đã được hoàn thành. Vào năm 1029, dưới thời đại trị vì của vua Lý Thái Tổ, Tử Cấm Thành được xây mới phục vụ cho vua làm việc và sinh hoạt thuận tiện hơn. Năm 1203, vua Lý Cao Tông tiếp tục cho xây dựng thêm các phần mới của Hoàng Thành Thăng Long. Theo thống kê, nhà Lý đã tiến hành tất cả 56 đợt xây dựng, với hơn 207 công trình kiến trúc, trong đó 3 đợt lớn nhất là năm 1010, 1029 và 1203 nêu trên.

Năm 1230, trên cơ sở Thành Thăng Long nhà Lý, Nhà Trần xây dựng thêm 2 quần thể ở Đông và Tây, sau đó xây dựng tiếp với hai đợt quy mô lớn là vào năm 1289 và 1371, với 7 đợt xây dựng và 55 công trình kiến trúc.

Khoảng thời gian từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII có thể coi là giai đoạn phát triển bậc nhất của Hoàng Thành Thăng Long với các cuộc mở rộng và xây dựng quy mô lớn chưa từng có. Năm 1490, Lê Thánh Tông gấp rút cho xây lớn và mở rộng Hoàng Thành thêm 8 dặm chỉ trong vòng 8 tháng. Tuy nhiên bước vào giai đoạn những năm 1516 đến 1527, khi nhà Mạc cướp ngôi vua Lê, khắp nơi chìm trong loạn lạc đau khổ. Hoàng Thành Thăng Long lúc này, cùng với nhiều cung điện chùa chiền, bị tàn phá và thiêu đốt nhiều lần. Đến năm 1585, Mạc hầu hợp trở lại Đông Kinh (chính là Kinh Thành Thăng Long) xây dựng lại thành trên diện rộng.

Năm Gia Long 1805, vua sai người phá hủy tường thành cũ và xây lại với quy mô nhỏ hơn. Đồng thời lúc này cũng cho xây dựng Cửa Bắc (Bắc Chính Môn) và sửa lại điện Kính Thiên (năm 1819). Khi Pháp xâm lược, chúng lại phá bỏ bới đi thành Hà Nội để lấy đất công làm trại. Năm 1835, vua Minh Mạng lại cho xén bớt Thành Thăng Long đi chỉ còn 5 mét. Đến 1886, Điện Kính Thiên, trung tâm của Hoàng Thành Thăng Long xây dựng vào năm 1428, bị thực dân Pháp phá bỏ chỉ còn sót lại nền đá cũ và 2 bậc thềm rồng đá.

Như vậy là trong suốt chiều dài 13 thế kỷ của mình, Hoàng Thành Thăng Long đã có rất nhiều lần được mở rộng, xây mới, bị tàn phá hư hại và phục dựng nhiều lần. Hiện tại, Thành Thăng Long chỉ còn sót lại một phần rất nhỏ là khu trung tâm di tích Hoàng Thành Thăng Long, rộng khoảng 20 ha so với quy mô 140 ha ban đầu.

Địa thế và các yếu tố quyết định khi xây Hoàng Thành Thăng Long

Nói về địa thế của Hoàng Thành Thăng Long, có thể coi nơi ấy chính là vị trí thuận lợi nhất, về cả mặt chính trị, quân sự và phong thủy. Thành được bao bọc bởi sông Tô Lịch, sông Kim Ngưu, lại có núi Khán, núi Nùng để dựa lưng, theo như "Chiếu dời đô" của vua Lý Thái Tổ ghi rằng: "...đô cũ của Cao Vương ở thành Đại La, ở giữa khu vực trời đất, có thế rồng cuộn hổ ngồi, ở giữa Nam – Bắc – Đông – Tây, tiện hình thế núi sông sau trước, đất rộng mà bằng phẳng chỗ cao mà sáng sủa, dân cư không khổ về ngập lụt, muôn vật rất thịnh mà phồn vinh, xem khắp nước Việt, chỗ ấy là nơi hơn cả. Thực là chỗ hội họp của bốn phương, là nơi thượng đô của kinh sư muôn đời..."

Xét về điểm địa lý, xây dựng Hoàng Thành Thăng Long ở đây vừa giúp phát triển kinh tế đất nước, vừa giúp cho việc quản lý đất nước thuận tiện hơn. Không chỉ vậy, đây cũng là vị thế khá thuận lợi về mặt quân sự và quốc phòng.

Thứ nhất, Kinh thành thông với nhiều cửa biển ngược xuôi, liên kết với mạng lưới ra các tỉnh lân cận cũng như ra biển, giúp thuận lợi cho tiếp tế lương thực, binh lính cũng như đánh bại kẻ thù.

Thứ hai, Thăng Long còn tọa lạc tại trung tâm của đất nước, đất đai màu mỡ, khí hậu ôn hòa thuận lợi, tiếp giáp với nhiều vùng khác nhau, từ đó vừa đóng vai trò hậu phương cung cấp lương thực dồi dào, vừa giúp chừa đường lui về các tỉnh khác khi có biến loạn xảy ra.

Những đặc sắc về nghệ thuật kiến trúc

Loại hình kiến trúc

Với hơn 1000 năm văn hiến, trải qua bao thăng trầm lịch sử, bao triều đại Lý, Trần, Lê, Mạc, Nguyễn... Hoàng Thành Thăng Long cũng đã bị lớp bụi thời gian và những cuộc chiến tranh hủy hoại nghiêm trọng. Cho tới nay, một phần lớn kiến trúc hoàng thành đã được bảo tồn và phục dựng lại trên nền di tích từ thời xa xưa. Ngoài phần công trình được xây dựng trên bề mặt, khu di tích khảo cổ cũng đã dần được khai quật một cách chuyên nghiệp và bài bản để có thể mở cửa cho công chúng tham quan, tìm về lại với lịch sử vàng son của nước Việt.

Vật liệu xây dựng

Về vật liệu xây dựng, người xưa đã sử dụng rất đa dạng, phong phú các vật liệu quý giá để xây dựng hoàng thành.

Mái cung điện chủ yếu được lợp ngói âm – dương và ngói phẳng, làm từ gốm, chủng loại lại rất đa dạng mà người xưa còn gọi bằng những mỹ danh khác nhau. Đặc biêt, loại ngói Sen tinh xảo và đẹp đẽ, thành quả nhà Trần kế thừa và sáng tạo, đã nâng vẻ đẹp cốt lõi ấy lên một tầm cao mới và mang lại một sắc thái rất riêng cho nghệ thuật kiến trúc đương thời. Sử cũ viết, khi có cơ hội chứng kiến kiến trúc hoàng thành thời Lê, sứ giả nhà Thanh Lý Tiên Căn đã viết rằng: "chỉ có nhà vua mới được lợp ngói màu vàng, quan và dân lợp bằng cỏ" (An Nam tạp ký).

Xây dựng các kiến trúc vòm và thành cũng như đường đi, các kiến trúc tường và cổng còn sót lại xây dựng chủ yêu bằng gạch đá chắc chắc, vững chái. Tường, cổng một số nơi sơn vàng, còn lại vẫn giữ nguyên hiện trạng ban đầu. Các vật trang trí như tượng rồng bên ngoài điện Kính Thiên hay phù điêu, được chạm khắc tinh xảo bằng gốm hoặc đá, các nét khắc vẫn được giữ cơ bản rõ nét. PGS.TS Tống Trung Tín, khi đánh giá về kiến trúc cung điện Thăng Long cũng đã bày tỏ "Phải còn rất lâu nữa chúng ta mới hiểu được kiến trúc hoàng cung Thăng Long."

Các chi tiết trang trí

Hoàng Thành Thăng Long - địa danh nổi tiếng không chỉ bởi lịch sử lâu đời mà nơi đây gây ấn tượng với du khách bởi những chi tiết trang trí vô cùng khéo léo, tài hoa.

Trước tiên, khi nhắc đến các chi tiết trang trí độc đáo, Hoàng thành đã có những đề án rất đa dạng và giàu những hình ảnh biểu tượng cho dân tộc Việt Nam. Đề án Rồng - Phượng là đề án trang trí khá phổ biến với những cách trang trí khéo léo đầy sáng tạo. Rồng là biểu tượng của đế vương, của sự quyền uy và sức mạnh. Hình tượng này còn được gắn liền với các hình ảnh khác như sấm, mưa, sét,... các hiện tượng tự nhiên dường như có thể nối liền hình ảnh trời - đất, mang lại sự sống trên trái đất này. Trên các đầu ngói ống, hình ảnh rồng uốn lượn, mào lửa dài, những vây lưng là đạo lửa nhỏ xếp khít nhau.

Ngoài đề án trang trí hình Rồng - Phượng, đề án trang trí bằng các loài hoa như sen, cúc, mẫu đơn ... là khá phổ biến trong các gạch lát và đầu ngói ống. Với đặc trưng cũng như mang tính biểu tượng cho sự thanh cao, giản dị, trong sạch, mang vẻ đẹp của sự sống an bình, các loài hoa được chạm khắc cùng với các dạng hoa văn sóng nước, mây, hoa lá,.. biểu tượng cho sự vận động liên tục, không ngừng phát triển của không gian và thời gian vũ trụ.

Các hình ảnh như tượng đầu nhà, tượng trang trí: tượng đầu rồng, tượng trang trí,.. được tìm thấy rất nhiều trong hố khai quật. Với chất liệu rắn chắc cùng loại đất nung mang màu đỏ son, các hình ảnh này vẫn giữ nguyên được nguyên trạng dù đã trải qua hàng trăm năm trong lòng đất.

Về phù điêu trang trí, Hoàng Thành Thăng Long được biết đến với nhiều phù điêu đa dạng, đặc sắc. Một số loại hình như những mặt hổ phù, tượng đầu sư tử, mặt linh thú mang màu sắc kiến trúc thời Đại La được làm từ đất sét mịn và có chọn lọc. Hình tượng sư tử mang tính tả thực cao khi vẫn giữ được khuôn mặt dữ tợn, miệng há rộng và có những chiếc răng nanh nhe ra đầy hung dữ. Hình ảnh con mắt cùng hàm râu được khắc họa khéo léo, vừa khít với các chi tiết khác tạo khiến ta hình dung rõ về các biểu tượng đồng thời tạo nên sự hài hòa trong bố cục.

Có thể thấy, hoa văn trang trí phong phú và đa dạng với các mô típ biến đổi linh hoạt khác nhau. Đề tài về hoa sen được khắc họa theo những hướng khác nhau lúc thì nhìn trực diện lúc thì hướng nhìn nghiêng bổ dọc tạo cái nhìn đa dạng. Đối với đề tài linh thú, các hình tượng được miêu tả sắc nét với các bộ phận, chi tiết trên khuôn mặt, vẫn thể hiện được sự uy quyền, sức mạnh dù có tính cách điệu cao.

Sự thay đổi kiến trúc thành theo tiến trình lịch sử

Là một quần thể di tích gắn liền với lịch sử hình thành kinh thành Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội, kiến trúc của thành có sự thay đổi theo thời gian với các triều vua xây dựng trong lịch sử nước nhà.

Năm 1010, vua Lý Công Uẩn cho dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) về thành Đại La và chính thức đặt tên cho vùng này là Thăng Long khi chứng kiến thấy hình ảnh rồng vàng bay trên bầu trời. Ở thời kì này, thành Thăng Long được xây dựng theo mô hình tam trùng thành quách với các vòng tròn bao bọc nơi nhà vua và triều đình làm việc.

Đến thời nhà Trần (thế kỷ XIII - XIV), vua Trần đã cho chỉnh sửa lại kiến trúc, xây dựng thêm như Long Phượng thành và một số công trình liên quan như: hành lang dài để các quan triều thần có thể trú mưa/nắng,... Các kiến trúc có quy mô hoành tráng và trình độ kỹ thuật cao.

Điện Kính Thiên xây dựng năm 1428 nay chỉ còn 2 bậc thềm rồng đá tiêu biểu biểu cho nghệ thuật điêu khắc thời Lê.

Tuy nhiên từ năm 1873, khi Người Pháp chiếm đóng thành Hà Nội, phần lớn kiến trúc của thành đều bị thay đổi do phục vụ mục đích quân sự. Bên cạnh đó, các cửa thành Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc và cột cờ gọi là Kỳ Đài cũng được bổ sung thêm tạo nên một kiến trúc đồ sộ, hoành tráng. Ngoài việc các kiến trúc nguy nga, tráng lệ bị thay đổi, một số các công sự bảo vệ và chỉ huy được Pháp xây dựng.

Năm 1954, khi hoàng thành đã trở thành trụ sở của Bộ Quốc Phòng, một số công trình mới được xây dựng như nhà D67 và hầm D67 được xây dựng để bảo đảm an toàn cho các lãnh đạo cấp cao của nhà nước.

Có thể thấy, trải qua bao thăng trầm lịch sử, Hoàng Thành Thăng Long ngày nay vẫn được coi là công trình có kiến trúc đồ sộ. Mặc dù không còn giữ được tính nguyên vẹn những công trình vẫn còn những dấu tích đặc biệt trở thành những biểu tượng của Hà Nội ngày nay.

So sánh và mở rộng

Nghệ thuật kiến trúc của Hoàng Thành Thăng Long so với nghệ thuật kiến trúc cung đình các nước Châu Á thông qua phương diện bộ mái của kiến trúc.

Dựa trên các nghiên cứu đã được đưa ra tại Tọa đàm khoa học quốc tế "Nhận diện hình thái kiến trúc cung điện Việt Nam Lê sơ", nhà Lê Sơ đã tiến hành xây dựng và kiến thiết kinh đô Thăng Long dựa trên nền tảng thành Thăng Long thời Lý, Trần nhưng với quy mô lớn. Tuy nhiên, kiến trúc cung điện thời Lê Sơ ở Hoàng Thành Thăng Long vẫn còn nhiều bí ẩn nên các nhà nghiên cứu và khảo cổ đã tiến hành nghiên cứu kiến trúc Hoàng Thành Thăng Long dựa trên sự so sánh kiến trúc của Hoàng Thành Thăng Long, đặc biệt là điện Kính Thiên, với kiến trúc các cung đình cổ của các nước Châu Á. Trong đó, bộ mái kiến trúc chính là phương diện được đưa ra so sánh.

Hệ thống "đấu - củng"

Các cuộc khảo cổ giai đoạn 2002 - 2004, 2008 - 2009 đã khẳng định các công trình cung điện trong Hoàng cung Thăng Long đều là kiến trúc gỗ với kỹ thuật móng công trình rất độc đáo thời Lý - kết hợp "cột dương" là cột bên trong lòng nhà và "cột âm" là cột hiên xung quanh nhà. Trong các cuộc khảo cổ học năm 2017 - 2021, Viện Khảo cổ và Trung tâm Bảo tồn Di sản Thăng Long Hà Nội đã phát hiện được 70 cấu kiện kiến trúc gỗ, loại hình khá đa dạng như cột, kèo, xà, cán sàn, cấu kiện rui, xà đấu. Từ những nghiên cứu đã tìm ra được, cùng với sự so sánh ở các công trình kiến trúc gỗ nước ngoài (Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản), các nhà khoa học đã tìm thấy những nét tương đồng và điểm độc đáo khác biệt của kiến trúc gỗ ở Việt Nam. Trong đó, hệ thống "đấu- củng" được coi là chìa khóa cho kiến trúc của Hoàng Thành và các nước Châu Á khác.

Kiến trúc "đấu - củng" là một kiến trúc đặc biệt được các kiến trúc sư cổ đại sử dụng để làm cho phần mái hiên của cung điện được vươn ra xa nhất. "Đấu" là những miếng gỗ đệm thường có dạng khối hình gần vuông có xẻ rãnh, đóng vai trò nối chèn vào giữa các củng. Còn "củng" là những thanh gỗ ngang hoặc cong nối giữa cột và xà nhà, đóng vai trò bệ đỡ. Hệ thống "đấu - củng" được sử dụng rộng rãi tại các cung điện cổ ở các nước châu Á như: gác chuông của Tửu Kiến Tự, Hyogo, Nhật Bản; tu viện Jokhang (Đại Chiêu tự), Tây Tạng; Kham Nham tự, Hàn Quốc. Tại Việt Nam, tượng tháp chùa, cổ vật thời Lý khai quật tại khu di tích Hoàng Thành Thăng Long cho thấy rõ kết cấu "đấu - củng" được sử dụng trong suốt các thời kỳ nhà Lý - Trần - Lê trong việc xây dựng Hoàng Thành Thăng Long. Dựa vào những nghiên cứu và cuộc khảo cổ trong giai đoạn 2011 - 2015, các chuyên gia kiến trúc và khảo cổ học nhận định hệ thống "đấu - củng" tại thời Lý đơn giản, không phức tạp như của các quốc gia châu Á khác nhưng lại có sự kết hợp với điêu khắc tượng linh thú. Các "đấu - củng" thời Lý đều có vết tô son đỏ, đặc biệt là nhiều song cửa hình con tiện và những mẩu gỗ của cấu kiện kiến trúc tìm được tại di tích Hoàng Thành Thăng Long cũng còn tươi nguyên màu sơn đỏ, phản ánh kiến trúc cung điện xưa chắc chắn được sơn son và có vẻ đẹp lộng lẫy. Đấu củng thời Lê sơ cũng đều được sơn son màu đỏ và vẽ hoa văn bằng vàng; tuy nhiên, thời Lê Sơ kiến trúc cung điện có sự xuất hiện "bình áng" (bình áng thượng và bình áng hạ) thể hiện nét tương đồng với kiến trúc khác ở Trung Quốc thời Nguyên - Minh. Tuy nhiên, "đấu củng" tại Hoàng Thành có sự tạo tác đầu rồng nhô ra trên tầng đấu củng (đầu ma diệp), đây được xem là sự khác biệt đặc trưng của kiến trúc "đấu - củng" tại Hoàng Thành Thăng Long nói riêng và kiến trúc cung điện thời Lê Sơ nói chung.

Như vậy có thể thấy rằng, kết cấu "đấu - củng" tại Hoàng Thành Thăng Long vừa có sự tương đồng với kiến trúc của các nước châu Á khác, vừa có nét độc đáo tạo nên sự khác biệt làm cho Hoàng Thành Thăng Long không hề kém cạnh so với các cung điện nổi tiếng nhất ở Châu Á thời bấy giờ.

Loại ngói được sử dụng

Từ các phát hiện cho thấy bộ mái kiến trúc cung điện trong Hoàng cung Thăng Long, đặc biệt tại thời Lê Sơ, rất phong phú, đa dạng và có nhiều màu sắc bởi sự đan xen tương phản từ các loại ngói men vàng, men xanh và ngói đất nung màu đỏ hay màu xám đen. Từ các nghiên cứu có thể thấy được nét tương đồng và độc đáo trong các loại ngói được sử dụng của Hoàng Thành so với các cung điện khác.

Các nghiên cứu cũng chỉ ra trong việc xây dựng điện Kính Thiên có sử dụng loại ngói rồng men vàng, là loại ngói cao cấp nhất, để lợp mái giống như loại ngói được sử dụng tại điện Thái Hòa (cố cung Bắc Kinh). Ngoài ra cuộc khai quật phía Đông điện Kính Thiên năm 2021 tìm thấy một mô hình kiến trúc men xanh lục rất đặc sắc. Trên mô hình này mô tả khá hiện thực bộ mái của công trình được lợp bằng loại ngói ống, có diềm là ngói câu đầu trích thủy và bộ khung của công trình là hệ đấu củng. là các loại ngói được lợp trên mái các cung điện cổ ở Trung Quốc hay Hàn Quốc.

Tuy nhiên với loại ngói diềm mái được sử dụng tại Hoàng Thành Thăng Long thời Lý là trên lưng nó thường được gắn hình một chiếc lá đề cân, bên trong trang trí hình rồng, phượng với đường nét tạo tác rất khéo léo và mang tính nghệ thuật cao. Ngoài ra, loại ngói úp được sử dụng thường được tạo tác dưới dạng phù điều hay tượng tròn hình đồng rồng và hình kim phượng có kích thước khá lớn với cái cổ cao vươn lên trời, ở đó có những lỗ nhỏ để xâu dây buộc chặt vào bờ nóc mái cho nên nó còn có một tên gọi khác là ngói trang trí mái.Tại các di tích kinh đô của các nước châu Á khác, người ta chỉ thấy chủ yếu là loại ngói ống có đầu trang trí linh thú hay hoa sen, hoa cúc, chưa có nơi nào có loại ngói ống gắn lá đề trang trí rồng phượng như Kinh đô Thăng Long. Ngoài ra, tại thời nhà Lê, các hàng ngói được trang trí thành một con rồng dạng tượng tròn: viên ngói đầu tiên ở diềm mái được trang trí bằng một đầu rồng, các viên tiếp theo tạo thành thân rồng, có vảy, vây lưng và viên ngói cuối cùng ở áp mái là đuôi rồng. Điều này là cho toàn bộ phần mái cung điện như một đàn rồng đông đúc, tạo sự độc nhất vô nhị không thấy ở Đông Á.

Qua đó ta có thể thấy rằng nếu nghiên cứu so sánh với các loại ngói ống lợp mái và ngói úp đã được sử dụng ở các kinh đô cổ trung đại của Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc,... thì hình lá đề gắn với trang trí rồng, phượng trên ngói tạo ra sự khác biệt quan trọng, tạo sự độc đáo và mang bản sắc riêng của nghệ thuật kiến trúc cổ Việt Nam.

So sánh kiến trúc Hoàng Thành Thăng Long và Hoàng Thành Huế

Mở đầu với khái niệm cơ bản: Kiến trúc là nghệ thuật khoa học tổ chức, sắp xếp không gian nhằm đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của con người. Không gian là đối tượng cơ bản của kiến trúc. Việc tiếp cận nhiều cách khác nhau tạo ra các loại hình không gian kiến trúc khác nhau. Tổ chức không gian chứa đựng một loạt không gian giống nhau chuyển động. Các không gian thành phần được liên kết trực tiếp với nhau hoặc thông qua một không gian riêng biệt khác.

Và với câu nói: "Bậc vương giả dựng nước đặt Kinh đô, tất lấy thành trì làm chắc." Việc so sánh thời gian, không gian kiến trúc của Hoàng Thành Thăng Long và Hoàng thành Huế mang tính chất lịch sử quan trọng để thấu hiểu sâu sắc những dụng ý trong tầm nhìn xây dựng, bảo vệ Kinh thành đất nước.

Bản đồ khu di tích trung tâm Hoàng Thành Thăng Long - Nguồn: Institute of Imperial Citadel Studies (IICS).

Vào năm 1010, Hoàng Thành Thăng Long được xây dựng theo mô hình "tam trùng thành quách" - thành nhỏ nhất ở trong cùng là Tử Cấm thành, nơi dành cho vua, hoàng hậu và cung tần - ở giữa là Hoàng thành, nơi ở và làm việc của triều đình - ở ngoài cùng là La Thành, nơi ở của các tầng lớp nhân dân và quan lại, với 4 cửa: cửa Đông là Tường Phù, cửa Tây là Quảng Phúc, cửa Nam là Đại Hưng, cửa Bắc là Diệu Đức và các tòa nhà, kiến trúc khác. Cấu trúc chung của không gian kiến trúc Hoàng Thành Thăng Long cũng thể hiện hiện tượng định hướng đồng nhất và đầy đủ mối quan hệ giữa thành phố - núi non. Các cung điện, cổng và các tuyến đường nghi lễ đều được định hướng dọc theo phương vị 185° (các phương vị thực dựa trên hướng bắc, với hướng bắc là 0°).

Hoàng thành Thăng Long xây dựng nền móng kiến trúc rất vững chãi và được đặt trực tiếp trên chân tảng đá chạm hoa sen để đỡ mái. Hệ thống móng trụ có hình vuông, được xếp thành các hàng ngang - dọc dựa theo các quy chuẩn khoảng cách, đặc biệt mỗi móng trụ sẽ đi cùng một cột gỗ.

Nét truyền thống trong kiến trúc cổ truyền người Việt được thể hiện một phần qua vật liệu kiến trúc, ví như: mái lợp ngói âm dương và ngói phẳng, các góc mái và đỉnh mái được trang trí bằng các tượng rồng, phượng, sư tử tròn bằng đất nung. Vẻ đẹp kiến trúc của Hoàng thành Thăng Long còn được thể hiện qua những mái ngói với những danh xưng mỹ từ như: "Kim Ngoa – Ngói men vàng", "Nàng Ngao – Ngói men bạc", "Bích Ngoa – Ngói men xanh". Vẻ đẹp ấy còn là nguồn cảm hứng của văn học, thơ ca; ví như Càn Ni Sơn bia Hương Nghiêm tự (1125) đã viết "Mái hiên bay cao như cánh chim xếp, ngói xếp như vảy cá" hay "Vạn ngói xếp như vảy cá, sương mai giọt ngọc".

Sơ đồ 1. Phân chia các không gian trong Hoàng Thành Huế

Nguồn: Xử lý phân chia không gian của tác giả dựa trên bản đồ Đại Nam Nhất thống chí xuất bản năm 1919

Là một trong ba trung tâm chính trị của vương triều Nguyễn, đến năm 1802, tổng thể kiến trúc của Hoàng thành Huế mới được quy hoạch và xây dựng trên một trục đối xứng, xoay mặt về hướng Nam, tuân thủ nguyên tắc "tả nam hữu nữ" - "tả văn hữu võ" - "tả chiêu hữu mục" (tính từ trong ra, bên trái trước, bên phải sau, lần lượt theo thời gian). Nhưng cũng phải đến năm 1833 dưới đời vua Minh Mạng, nó mới được cải trang hoàn chỉnh toàn bộ hệ thống cung điện với khoảng 147 công trình, có 4 cửa: Cửa chính (phía Nam) là Ngọ Môn, cửa Đông là Hiển Nhơn, cửa Tây là Chương Đức, cửa Bắc là Hòa Bình. Hoàng thành Huế được xây dựng với dạng hình vuông hơi khum ở phía trước theo địa hình dải đất dọc bờ sông Hương dựa trên mô hình kiến trúc truyền thống Việt Nam và kiến trúc quân sự phương Tây kiểu Vauban, cùng tư tưởng triết lý phương Đông với thuyết âm dương ngũ hành của Trung Hoa.

Hầu hết các công trình ở trong Hoàng Thành Huế được dựng dưới dạng mặt bằng hình chữ nhật, hình vuông và hình bát giác. Các công trình có mặt bằng hình chữ nhật dành cho Hoàng đế, gồm 2 - 3 toà nhà nối liền với nhau cùng dựng trên một nền móng và có 2 tầng mái theo kiểu "Trùng Thiềm Điệp Ốc", còn những công trình kiến trúc dân dụng Hoàng gia có mặt bằng đơn dạng hình chữ nhật - hình vuông có 1 - 2 tầng mái.

Hoàng thành Huế dựng xây nền công trình bằng đá với mặt nền được lát bằng gạch Bát Tràng tráng men xanh - vàng, hệ kết cấu chịu lực của công trình ban đầu được làm bằng các loại gỗ quý hiếm như: đinh, lim, sến, táu... Sau giai đoạn dựng xây thêm các công trình thì có sử dụng thêm gạch hoa, bê tông cốt thép và tường xây gạch. Mái được lợp bằng các loại ngói như: thanh lưu ly, hoàng lưu ly, ngói âm dương hoặc ngói liệt.

Hình ảnh cá chép hóa rồng được thể hiện trên các đường nóc, ô cửa của các cụm kiến trúc Hùng Tổ Miếu, Thế Tổ ở Hoàng thành Huế, qua lớp vữa. Câu cá hóa rồng là ước mơ nổi tiếng của người xưa truyền lại cho con cháu đời đời qua ngôn ngữ phù điêu, trang trí trên kiến trúc cung điện. Chúng phản ánh những ý nghĩa tâm linh sâu sắc, góp phần làm nên thành công của mỹ thuật triều Nguyễn và văn hóa Huế nói chung. Đồng thời, chúng cũng mang đậm dấu ấn của sự giao thoa giữa Nho giáo và Phật giáo qua phong cách tiêu biểu "Nàng tiên cá hóa rồng và hoa sen".

So sánh hai kiến trúc thành bậc hình rồng của thời Lê Sơ và Lê Trung Hưng tại Hoàng Thành Thăng Long

Hiện nay ở Hoàng Thành Thăng Long có hai bộ thành bậc hình rồng là bộ 2 rồng đá thời Lê sơ được xây dựng tại lối đi phía chính giữa điện Kính Thiên và bộ 2 rồng đá thời Lê Trung Hưng được xây ở lối đi bên trái phía sau điện Kính Thiên. Tuy nhiên, vẫn còn khá nhiều người nhầm lẫn 2 thành bậc này nhưng kiến trúc của hai thành bậc có sự khác biệt phản ánh nghệ thuật kiến trúc của từng thời kỳ.

Hình tượng nghệ thuật điêu khắc thời Lê Sơ đã được kết tinh ở bộ thành bậc trang trí rồng tại thềm bậc đá chính điện Kính Thiên có niên đại năm 1467. Hai bên lan can được trang trí bằng hoa sen, lá sen, vân mây,... đều là những họa tiết trang trí đặc trưng của kiến trúc nhà Lê. Điểm đặc trưng của thành bậc chính là bộ rồng thời Lê vẫn tiếp nối dáng rồng thời Trần và thể hiện những đặc điểm: thân không có vảy; dáng tròn, thon, uốn lượn hình sin đều đặn; bộ đầu có sừng và uy nghiêm hơn đầu rồng thời Trần với nhiều chi tiết như trán, mắt, mũi, sừng,... được phóng to, khối nối cao hơn và sâu hơn, bộ râu được tỉa tót; 5 móng rồng khỏe mạnh quắp lại trong tư thế đang vuốt râu. Hình tượng rồng 5 móng như một biểu tượng chứng minh sự hoa lệ và giàu có bậc nhất của một kinh đô thời bấy giờ.

Thành bậc hình rồng được điêu khắc tại bậc thềm đá phía sau dưới thời Lê Trung Hưng lại có sự khác biệt do chịu ảnh hưởng của kiến trúc chung của thời đại. Lan can không còn khắc hoa sen, hoa cúc mà thay bằng trang trí chim phượng, cá hóa rồng, sóng nước, vân mây,... được chạm trổ nông sâu khác nhau, chồng lớp không giống như lan can phía trước. Rồng thời này có sự biến đổi cực kỳ lớn trên phạm vi cả nước. Hình tượng rồng thời Lê Trung Hưng trở lại kiểu dáng rất khỏe, cấu trúc chặt chẽ, và thể hiện yếu tố thời đại rõ ràng trên dáng rồng có khúc uốn đơn giản hơn, khúc uốn giãn hơn so với thành bậc phía trước, xuất hiện những cụm mây đao mác khỏe khoắn và vươn dài. Đồng thời mũi trở nên thuôn dài, đầu nhọn hơn tù, khác biệt so với rồng thời Lê.

Như vậy, qua những khía cạnh được phân tích ta có thể thấy được sự khác biệt của hai thành bậc rồng thời kỳ Lê Sơ và Lê Trung Hưng với những kiến trúc đặc trưng từng thời được thể hiện rõ nét.

Giá trị nghệ thuật kiến trúc của Hoàng Thành Thăng Long

Hoàng Thành Thăng Long chính là minh chứng hùng hồn nhất cho lịch sử hào hùng của ông cha ta, từ khi kết thúc 1000 năm Bắc thuộc, trải qua các tiếp biến đầy biến động của dòng thời gian đến nay vẫn còn âm vang. Nhờ các dấu tích còn sót lại của một công trình bậc nhất, các nhà khảo cổ học và nghiên cứu có thể đào sâu tìm tòi những giá trị và sự kiện lịch sử khác. Những kiến trúc của Hoàng Thành không chỉ đem lại những bài học cho chúng ta, biết yêu quý, trân trọng và tự hào nét đẹp, tài năng của ông cha mà còn thôi thúc những người yêu nghệ thuật, yêu lịch sử có những đóng góp cho việc bảo tồn, phục dựng và phát triển những kiến trúc Hoàng Thành. Vẻ đẹp ấy đã thổi hồn và khơi gợi cảm hứng cho bao nhiêu nhà thơ, nhà văn, nghệ sĩ và lớp lớp người yêu nghệ thuật. Nét đẹp của những mái đình, rồng đá, con đường, những chạm khắc, những màu men,... của Hoàng Thành Thăng Long đã thể hiện bàn tay khéo léo, niềm yêu với nghệ thuật và tư duy tài hoa sáng tạo của của nghệ nhân Việt Nam thời xưa. Hiện nay, Hoàng Thành thăng Long là điểm đến thu hút số một ở Hà Nội không chỉ bởi tính lịch sử mà còn vì những nét đẹp thẩm mỹ làm rung động người tham quan trải nghiệm.

III. PHẦN KẾT LUẬN

Công trình kiến trúc Hoàng Thành Thăng Long đã thể hiện văn hóa, con người Việt Nam qua hàng nghìn năm lịch sử. Danie Libeskind từng nhận định " Kiến trúc không dựa trên bê tông, thép hay các yếu tố của đất. Nó dựa trên sự kỳ diệu". Nghiên cứu về đặc trưng kiến trúc của Hoàng thành ta sẽ thấy được nét tài hoa, điêu luyện, nét độc đáo trong từng thiết kế, bên cạnh đó ta còn thấy được sự kỳ diệu trong tiến trình lịch sử xây dựng của cha ông ta.

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ

Họ và tên

Nhiệm vụ phân công

Kết quả

Đánh giá

Dương Minh Hằng

Viết bài, chụp hình

Hoàn thành đúng hạn, Tốt

100%

Nguyễn Ngọc Khanh

Viết bài, chụp hình

Hoàn thành đúng hạn, Tốt

100%

Vũ Hoàng Lan

Viết bài, chụp hình

Hoàn thành đúng hạn, Tốt

100%

Phan Đào Khánh Linh

Lập dàn ý, viết bài, chụp hình

Hoàn thành đúng hạn, Tốt

100%

Lê Như Ngọc

Viết bài, chụp hình

Hoàn thành đúng hạn, Tốt

100%

Nguyễn Thị Minh Thùy

Lập dàn ý, viết bài, chụp hình

Hoàn thành đúng hạn, Tốt

100%

Nguyễn Thị Khánh Vân

Viết bài, chụp hình

Hoàn thành đúng hạn, Tốt

100%

TÀI LIỆU THAM KHẢO



Dougong:A Nailless Chinese Construction Arts斗拱:中國人無釘的建築藝術. The Buddhist Garden.

Điện Kính Thiên, trung tam quyền lục nhất của Hoàng thành Thăng Long,tiếp tục giải mã bí mật. Dân Việt. (2023)

Giải mã bí ẩn cung điện thời Lê sơ qua các hiện vật khảo cổ tìm thấy ở Hoàng thành Thăng Long. Dân Việt. (2021)

Giải mã hình thái kiến trúc điện Kính Thiên: Đi tìm những ''mảnh ghép'' lịch sử. Nhịp sống Hà Nội. (2021)

Giải mã kiến trúc hoàng cung, phục dựng điện Kính Thiên tại Thăng Long xưa. Công an nhân dân. (2021)

Hoàng thành Thăng Long – Di tích lịch sử nghìn năm. Quốc phòng Thủ Đô. (2020)

Hoàng Thành Thăng Long, Tìm Về Dấu Ấn Lịch Sử Vàng Son. Klook. (2021)

Kiến trúc cung điện Việt Nam thời Lý - Trần dưới ánh sáng khảo cổ học. Dân Việt. (2018)

Kiến trúc vòm trong Hoàng thành. Hoàng thành Thăng Long. (2013)

Kiến trúc Hoàng cung qua các phát hiện khảo cổ học tại Hoàng Thành Thăng Long. Tạp chí kiến trúc. (2018)

Kiến trúc bát giác thời Lý tại Hoàng thành Thăng Long. Tạp chí kiến trúc. (2022)


Những phát hiện khảo cổ học về Hoàng thành Thăng Long. Nghiên cứu Lịch Sử. (2015)

. Dân Việt. (2021)

. Dân Việt. (2021)

Phong thủy Hà Nội xưa đáp ứng gì để được chọn làm kinh đô?. Zingnews. (2019)



Về vị trí địa lý và vị thế thành Thăng Long. Thánh Địa Việt Nam Học. (2020)



PHỤ LỤC ẢNH

III. Đề cương

VĂN HÓA VÀ VĂN HÓA HỌC

A. CỘI NGUỒN VĂN HÓA VIỆT NAM

I. CON NGƯỜI-CHỦ/KHÁCH THỂ CỦA NỀN VĂN HÓA

Các định nghĩa về con người:

Quan niệm về con người trong triết học phương Đông

Lão Tử: Con người là vũ trụ thu nhỏ

Thuyết tam tài: Con người là một trong ba thế lực của vũ trụ( thiên địa nhân)

Phật giáo: Người và muôn loài là bình đẳng

Quan niệm về con người của phương Tây cổ truyền: Con người là trung tâm vũ trụ, là chúa tể muôn loài

Chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử: Trong tính thực tiễn của nó, con người là sự tổng hòa các mối quan hệ xã hội

Trong thời đại tin học: Sử dụng khái niệm con người nhiều chiều

Trong khoa học sinh thái: Con người là thành viên đặc biệt trong sinh quyển, do bản chất sinh vật phát triển hoàn hảo nhất và do bản chất văn hóa chỉ có ở con người

B.Franklin: Con người là động vật làm ra công cụ

F.Ăngghen: Con người là sinh vật có tính xã hội cao nhất

2. Sự nhìn nhận vai trò của con người:

Trong toàn bộ sự phát triển của xã hội, con người vừa là chủ thể thực hiện sự phát triển của xã hội (thực hiện sự phát triển của xã hội/sự phát triển của lực lượng sản xuất), vừa là đối tượng hưởng thụ những thành quả của sự phát triển đó=> Hai vế này có sự gắn bó chặt chẽ và luôn luôn cần giữ được sự cân đối trong từng hoàn cảnh lịch sử

=> Với văn hóa con người cũng có nghĩa vụ sáng tạo và quyền lợi hưởng thành quả như vậy

Dưới góc độ văn hóa, con người là chủ thể sáng tạo ra văn hóa đồng thời là khách thể của sự sáng tạo văn hóa (con người hưởng thụ những thành quả do mình làm ra: là sản phẩm của văn hóa và cũng là đại biểu mang giá trị văn hóa do con người sáng tạo ra)

II. CON NGƯỜI VIỆT NAM-CHỦ/KHÁCH THỂ CỦA NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM

GS Đào Duy Anh: những tính chất này không phải là bất di bất dịch

Người Việt đại khái thông minh nhưng ít người có trí tuệ lỗi lạc phi thường

Sức kí ức phát đạt, giàu trí nghệ thuật hơn trí khoa học, giàu trực giác hơn luận lí

Có tính ham học song thích văn chương phù hoa hơn thực học, thích thành sáo và hình thức hơn là hoạt động

Ít mộng tưởng và phán đoán thiết thực

Sức làm việc nặng vượt trội; hơi chậm chạp nhưng giỏi chịu đau đớn và hay nhẫn nhục

Tính khí hơi nông nổi, không bền chí, hay thất vọng, hay khoe khoang bề ngoài, ưa hư danh và thích chơi cờ bạc

Thường thì nhút nhát và chuộng hòa bình, song ngộ sự thì cũng biết hi sinh vì đại nghĩa

Não sáng tác thì ít nhưng giỏi bắt chước thích ứng và dung hòa

Trọng lễ giáo song cũng có não tinh vặt

=> Ưu điểm: người VN thông minh, giàu trí nghệ thuật, giàu trực giác, ham học, chịu khó, giỏi chịu đựng, ưa hòa bình

=> Nhược điểm: nông nổi, không bền chí, hay thất vọng, khoe khoang, ưa hư danh, tinh vặt

Các tác giả đề tài KX-07:

Ưu điểm: người VN có tinh thần yêu nước, kiên cường gắn bó với quê hương xứ sở; ý thức sâu sắc và vững bền về bản ngã; cố kết cộng đồng, cần cù, chịu thương, chịu khó, giỏi chịu đựng gian khổ, tình nghĩa, ứng xử linh hoạt, dễ thích nghi, dễ hội nhập

Nhược điểm: tâm lí bình quân, cào bằng, đố kị, tác phong tùy tiện, ăn xổi, tâm lí cầu an, cầu may, thủ cựu, gia trưởng=> Lí do: điều kiện môi trường tự nhiên khắc nghiệt, thất thường + điều kiện xã hội lắm chiến tranh + hạn chế của nền sản xuất nông nghiệp tiểu nông chủ yếu dựa vào kinh nghiệm

Ở VN từ xa xưa đã có con người cá nhân trên nền tảng tiểu nông nhưng do tư tưởng công xã phương Đông bao trùm nên vai trò cá nhân không được phát huy mà cá nhân luôn được đặt trong và dưới cộng đồng

=> Hằng số văn hóa VN cổ truyền về mặt chủ thể là người nông dân VN

=> Vượt lên là đặc điểm duy tình, duy nghĩa, duy cảm trong MQH giữa người với người, người với tự nhiên; nhất là thái độ trách nhiệm với thế hệ mai sau

III. KHÁI NIỆM VĂN HÓA VÀ CÁC KHÁI NIỆM LIÊN QUAN

Khái niệm văn hóa

Trong Chu Dịch: văn hóa là xem dáng vẻ con người, lấy đó mà giáo hóa thiên hạ

Lưu Hướng: Văn hóa là phương thức giáo hóa con người

Ở phương Tây: Văn hóa là trồng trọt và nuôi dưỡng tinh thần

E.B.Taylor: VH bao gồm những hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục... mà con người có được với tư cách là một thành viên của xã hội

2. Khái niệm văn minh, văn hiến, văn vật

Văn minh (văn=vẻ đẹp; minh=tia sáng): là trình độ phát triển nhất định của văn hóa về phương diện vật chất, đặc trưng cho một khu vực rộng lớn, một thời đại, hoặc cả nhân loại

Văn hiến (hiến=người tài): là truyền thống văn hóa lâu đời và tốt đẹp; thiên về giá trị tinh thần, do những người có tài đức chuyển tải, thể hiện tính dân tộc, tính lịch sử rõ rệt

Văn vật (vật= vật chất): thiên về giá trị vật chất, gắn với những truyền thống, những thành quả VH với những thế hệ nhân tài tiêu biểu cho một vùng miền

3. Các định nghĩa hiện nay về văn hóa:

ĐN của Hồ Chí Minh: "Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo... và những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặt ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa."

ĐN của GS Trần Ngọc Thêm:

"Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn trong sự tương tác giữa con người với MT tự nhiên và xã hội của mình"

ĐN của UNESCO:

Là tổng thể những nét riêng biệt về tinh thần và vật chất, trí tuệ và cảm xúc

Bao gồm nghệ thuật văn chương lối sống, những quyền cơ bản của con người, hệ thống các giá trị, tập tục và tín ngưỡng

Chia làm di sản VH hữu thể (đình, đền, chùa, miếu) và VH vô thể (âm nhạc, múa, ngôn ngữ)

IV. ĐẶC TRƯNG VÀ CHỨC NĂNG CỦA VĂN HÓA

Đặc trưng: 4

Tính hệ thống:

Phân biệt hệ thống với tập hợp; phát hiện những mối liên hệ mật thiết giữa các hiện tượng, sự kiện thuộc một nền văn hóa; phát hiện các đặc trưng và quy luật

nhờ có tính hệ thống mà văn hóa thực hiện được chức năng tổ chức xã hội=> văn hóa là nền tảng của xã hội

Tính giá trị: phân biệt giá trị với phi giá trị, là thước đo mức độ nhân bản của xã hội và con người=> có thể phân chia thành giá trị vật chất và giá trị tinh thần; giá trị đạo đức và giá trị thẩm mĩ; vĩnh cửu và nhất thời

thực hiện chức năng điều chỉnh xã hội

Tính nhân sinh:

Phân biệt văn hóa như một hiện tượng xã hội nhân tạo với các giá trị tự nhiên

Khiến văn hóa trở thành sợi dây nối liền con người và thực hiện chức năng giao tiếp

Tính lịch sử:

Phân biệt văn hóa như sản phẩm của một quá trình và được tích lũy với văn minh như sản phẩm cuối cùng (trình độ phát triển từng giai đoạn)

Tạo nên văn hóa một bề dày, được duy trì bằng truyền thống văn hóa

Truyền thống văn hóa tồn tại nhờ chức năng giáo dục

2. Các chức năng:

Giáo dục:

Bồi dưỡng con người

Hướng lý tưởng, đạo đức và hành vi của con người vào điều hay lẽ phải, theo khuôn mẫu, chuẩn mực mà XH quy định

Tạo ra chức năng phái sinh của văn hóa: đảm bảo tính kế tục của lịch sử

Giao tiếp:

Công cụ giao tiếp quan trọng liên kết con người

Văn hóa là nội dung giao tiếp

Chức năng tổ chức xã hội:

Tập hợp một số người thành một tập thể riêng biệt

Làm tăng độ ổn định của xã hội, cung cấp cho xã hội phương tiện cần thiết để ứng phó với môi trường tự nhiên và xã hội

Chức năng điều chỉnh xã hội: định hướng các chuẩn mực, cách ứng xử của con người=> duy trì trạng thái cân bằng động của xã hội, không ngừng tự hoàn thiện và thích ứng; làm động lực cho sự phát triển của xã hội

V. CẤU TRÚC CỦA VĂN HÓA

Nếu chia văn hóa như một hệ thống gồm 4 thành tố thì cơ bản sẽ như sau:

Văn hóa nhận thức: kinh nghiệm và tri thức về vũ trụ và con người

Văn hóa tổ chức cộng đồng: gồm văn hóa tổ chức đời sống tập thể và đời sống cá nhân

Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên

Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội

VH sản xuất:

Ngành sản xuất chính: nông nghiệp-trồng lúa nước=> ĐVSX cơ bản: gia đình nhỏ

Nghề thủ công hình thành và tồn tại ngay trong làng=> làng nghề

VH vũ trang:

Đặc trưng nổi bật trong nghệ thuật chiến đấu của người Việt: cơ động bằng thuyền - thạo thủy chiến và dùng dân binh hỗ trợ quân binh

VH sinh hoạt:

Cư trú trên các doi đất cao, dọc hai bên sông, thường ở nơi ngã ba sông

Quy mô cư trú thường gồm vài chục gia đình

Ăn: chủ yếu là gạo tẻ, đạm thủy sản

Mặc: đàn ông cởi trần đóng khố; đàn bà mặc váy, áo ngắn; tóc cắt ngắn, tết hoặc búi củ hành; có tục xăm hình

Đi lại: chủ yếu là đường thủy; bằng thuyền; trên bộ thì voi trâu

Đời sống tinh thần: ca múa nhạc, nghệ thuật tạo hình, lễ hội, tín ngưỡng...=> phong cách chung là mềm mại, dịu nhẹ và trầm lắng

Tín ngưỡng: phồn thực

Tư cách, tính chất và tâm lí thể hiện rõ trong "nguyên lí mẹ"

Cư dân trong làng ngày xưa phải tuân theo một hệ thống các lệ làng gọi là hương ước:

Hương ước đề ra các hình thức trừng phạt đối với những việc làm trái với lệ làng và đề ra những hình thức khen thưởng đối với những việc có ích cho làng

hương ước được xây dựng trên cơ sở những mối quan hệ giữa các thành viên của cộng đồng và giữa các cộng đồng

Tồn tại song song với luật pháp nhà nước

Chủ yếu là quy ước về ruộng đất; khuyến nông, bảo vệ sản xuất và môi trường; tổ chức xã hội và văn hóa tinh thần và tín ngưỡng

B. CỘI NGUỒN VĂN HÓA VIỆT NAM

I. ĐẶC TRƯNG VĂN HÓA VÀ CỘI NGUỒN VĂN HÓA

Vấn đề xác định đặc trưng văn hóa

NHững giá trị văn hóa mang tính đặc thù, chỉ có ở những cộng đồng này mà không thấy rõ ở cộng đồng kia và ngược lại chính là đặc trưng văn hóa

Sự khác biệt tạo ra đặc trưng của mỗi dân tộc trước hết được minh định dựa trên sự khác biệt giữa văn hóa dân tộc này với văn hóa dân tộc khác

=> Có thể hiểu đặc trưng VH là những nét trội về một hay một số mặt nào đó của VH một dân tộc hay một cộng đồng=> Làm thành các giá trị VH cơ bản, tiêu biểu, có tình bền vững và cùng với các giá trị khác làm thành nền văn hóa

=> Đặc trưng VH của một dân tộc chính là những giá trị tiêu biểu về tinh thần và vật chất mà dân tộc đã tích lũy trong quá trình lịch sử, có tính bền vững, có ý nghĩa lâu dài và có giá trị khu biệt

Về cội nguồn của văn hóa dân tộc:

Nổi bật nhất khi xem xét cội nguồn của văn hóa là các ý kiến về điều kiện tự nhiên

Hai điều kiện tự nhiên của phương Tây và phương Đông khác nhau đã làm thành hai nền văn hóa với những đặc trưng khác nhau:

Phương Tây: khí hậu lạnh khô=> vùng đồng cỏ phù hợp chăn nuôi: VH trọng động (gốc du mục)

Phương Đông: khí hậu nóng-ẩm=> đồng bằng trù phú phù hợp trồng trọt: VH trọng tĩnh (gốc nông nghiệp)=> VN thuộc loại văn hóa gốc nông nghiệp điển hình

Từ trong cội nguồn, không gian văn hóa VN được định hình trên nền không gian VH khu vực Đông Nam Á tiền sử=> Nhân tố đầu tiên và cũng là nhân tố làm nên đặc trưng gốc của VH VN

Sự tiếp xúc và tiếp nhận những nền văn hóa khác nhau (Trung Hoa, Ấn Độ, phương Tây) => Nhân tố thứ hai

Đặc tính trội nhất khi nói về bản sắc VH, về lịch sử dân tộc VN là đặc trưng gốc văn hóa nông nghiệp lúa nước

Cội nguồn VH và sự biểu thị VH dân tộc

Trong VH Việt có mối liên hệ rất rõ ràng giữa sự phong phú về điều kiện tự nhiên và tính đa dạng về VH

Đất nước ta ở trong một môi trường tự nhiên nước=> Yếu tố đặc biệt chi phối nhiều mặt trong đời sống: nghề nghiệp (trồng lúa nước); ăn (ăn cơm từ lúa nước với thủy sản; ở (định cư thành làng xóm, vùng cư trú gần nước); phương tiện đi lại (thuyền, bè, ghe); phong tục sinh hoạt cộng đồng (hội đua thuyền; bơi chải; kết đèn hoa đăng; thờ thủy thần); nghệ thuật dân gian (rối nước; chèo; tuồng)

Điều kiện thiên nhiên bao quanh xã hội luôn gắn liền với môi trường thực vật, làm thành đặc trưng văn hóa thuần Việt => "nền văn minh thực vật"

=> Những tính trội-đức tính phẩm chất tốt đẹp của người Việt đều liên quan đến những những đặc trưng cội nguồn trên:

Người Việt có tinh thần yêu nhà, yêu làng, yêu nước, sống trọng tình nghĩa: do lối sống quần tụ, tương trợ

Mềm dẻo trong ứng xử với cộng đồng: lấy dung hợp, hiếu hòa làm trọng

dễ thích nghi với môi trường tự nhiên: chấp nhận biến đổi

Cần cù lao động, giỏi chịu đựng gian khổ: lấy cần cù bù lại những khó khăn do thiên nhiên không phải lúc nào cũng thuận lợi

Bên cạnh đó cũng kèm theo những mặt tiêu cực: tâm lý tiểu nông; tùy tiện, ít trọng lý, ít trọng nguyên tắc; xuề xòa; huề cả làng

II. NHỮNG ĐẶC TRƯNG CỦA NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM

Nền văn hóa hình thành từ nền tảng nông nghiệp trồng lúa nước ở miền sông nước và biển đảo

Đề cao giá trị văn hóa gia đình truyền thống; đậm tính cộng đồng, tự trị của văn hóa làng xã

Thấm đậm, bao trùm tinh thần yêu nước, ý thức quốc gia-dân tộc

Đề cao nữ quyền

Trọng nông, xa rừng, nhạt biển

Đa dân tộc, thống nhất trong đa dạng

Nền văn hóa mở, thích ứng và tiếp biến hài hoà các nền văn minh nhân loại

VĂN HÓA VỚI MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI

VĂN HÓA VỚI MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN

Tự nhiên là cái có trước

Tự nhiên là cái đương nhiên tồn tại, không phải do hiểu biết, ý muốn và sáng tạo của con người

Tự nhiên có 2 loại: vô sinh (phi sinh) và hữu sinh

Vô sinh (vật chất vật lí): hình thành cách đây 15 tỷ năm (vụ nổ Big Bang; Hệ mặt trời)

Hữu sinh: hình thành cách đây khoảng 3 tỷ năm

Sinh vật sản xuất

Sinh vật tiêu thụ

Sinh vật phân hủy

=> Con người thuộc nhóm SV tiêu thụ, xuất hiện muộn cách đây khoảng 2 triệu năm

=> Con người vốn sinh ra từ tự nhiên, cần có tự nhiên để tồn tại

Điều quan trọng nhất trong tự nhiên là những mối tương tác (thống nhất, mâu thuẫn) giữa các quần xã sinh vật (hữu sinh) và phi sinh tạo thành hệ sinh thái

=> Tự nhiên là tự nhiên chứ không phải những gì ngoài ta

=> Con người cũng là sản phẩm của tự nhiên

Trong thế kỉ XXI, con người sẽ biết sống hòa điệu với tự nhiên hơn là phá phách tự nhiên=> Triết lí của thế kỉ XXI là triết lí tân tự nhiên

Tự nhiên ngoài ta: Môi trường

Môi trường tự nhiên:

Một bộ phận của môi trường lớn

Là tổng thể các nhân tố tự nhiên quanh ta: khí quyển, nước, động thực vật

Môi trường nhân tạo:

Hệ thống môi trường được tạo ra do con người lợi dụng và biến đổi tự nhiên : giao thông, giáo dục, y tế

=> Môi trường nhân tạo được sáng tạo và phát triển trên cơ sở MT tự nhiên nên MT nhân tạo bị MT tự nhiên chi phối và ngược lại

3. Tự nhiên trong ta: bản năng

Mặt tự nhiên trong con người là bản năng

Bản năng của con người được đặt dưới sự kiểm soát của xã hội (phong tục, pháp luật, dư luận...)

Những bản năng gắn chặt với sự sống như ăn uống, giao hợp thì được từng cộng đồng văn hóa hóa bằng những nghi thức xã hội

=> Khác với loài vật, đặc điểm của loài người là khả năng vượt lên sự thống trị của bản năng

Nhờ chế ngự được bản năng, con người bước vào quá trình 2 mặt:

Tính sử: khả năng truyền lại di sản của thế hệ này cho thế hệ sau (di truyền xã hội, di truyền văn hóa)

Tính toàn cầu: biết đến những nền văn hóa khác, học hỏi những tiếng khác...nhờ vậy khám phá ra loài người

Con người = con (sinh vật) + người (xã hội)

4. Thích nghi và biến đổi tự nhiên

Để tồn tại con người phải thích ứng với thiên nhiên=> mối quan hệ của con người với tự nhiên là mối quan hệ nhiều chiều, mối quan hệ thích nghi, không thích nghi và biến đổi

Từ đó dẫn đến động cơ tiến hóa của loài người: sự không ngừng vượt lên trên các khả năng và các giới hạn của mình

4 giai đoạn sinh thái trong lịch sử mối quan hệ giữa con người với MT tự nhiên:

Thu lượm (cách đây khoảng 500.000 năm): việc con người biết sử dụng lửa và sự bành trướng của con người là tác động sinh thái nổi bật trong giai đoạn này

Nông nghiệp sơ khai (cách đây khoảng 12000 năm): giai đoạn thuần hóa súc vật và cây trồng=> con người có thể điều khiển một cách có chủ ý các quá trình sinh học để phục vụ mình

=> Đặc điểm của 2 giai đoạn đầu:

Tỉ lệ sử dụng năng lượng ngoại thể (chủ yếu là lửa) song song với tỉ lệ phát triển dân số

Hoạt động của con người tác động không đáng kể vào chu trình sinh địa hóa

Đầu đô thị và hình thành lối sống đô thị (cách đây khoảng 5000 năm): làm thay đổi cơ cấu thức ăn; chuyên môn hóa lao động đã trở nên phổ biến=> hệ sinh thái ở vào thế cân bằng động

Công nghiệp hiện đại:

Mức tiêu thụ năng lượng tăng gấp đôi tỉ lệ tăng dân số

Chu trình sinh địa hóa ở nhiều vùng không còn nguyên vẹn nữa

=> Thế cân bằng đã bị phá vỡ ở nhiều nơi trên trái đất

Để tồn tại, các dân tộc cộng đồng phải dùng những biện pháp kĩ thuật khác nhau để biến đổi tự nhiên, bắt tự nhiên phục vụ con người=> Chiến lược thích nghi

=> Kết quả của chiến lược thích nghi tác động không nhỏ tới việc hình thành những nét đặc thù của một bản sắc văn hóa=> Theo nghĩa rộng, VH là cái tự nhiên được biến đổi bởi con người
5. Đặc điểm môi trường tự nhiên, hệ sinh thái VN với vấn đề bản sắc dân tộc, VH VN

Vị trí địa lí: VN nằm giữa ĐNA, là ngã tư đường của các cư dân và các nền văn minh

Địa hình:

Dài Bắc-Nam; hẹp Đông-Tây

Núi rừng chiếm ⅔ diện tích, còn lại là đồng bằng

Sông ngòi nhiều và phân bố đều khắp

Khí hậu: nóng, ẩm, mưa nhiều

Sông ngòi: có nhiều sông lớn=> đồng bằng màu mỡ thuận lợi trồng lúa

=> Hằng số tự nhiên VN: Nhiệt-ẩm-gió mùa

Hệ sinh thái phồn tạp thực vật phát triển hơn động vật

Có nhiều vùng sinh thái khác nhau=> Đa dạng về VH

=> 2 tính trội của VH VN truyền thống: tính sông nước và tính thực vật

Tính thực vật (cốt lõi là cây lúa): in đậm nét trong đời sống hàng ngày (ăn ở, đi lại, mặc, phong tục)

Tính sông nước: kĩ thuật canh tác, cư trú (làng, chợ ven sông), ăn, ở, tâm lí ứng xử, sinh hoạt cộng đồng (đua thuyền, bơi chải), nghệ thuật (chèo tuồng, rối nước)

II. VĂN HÓA VỚI MÔI TRƯỜNG XÃ HỘI

Khái niệm xã hội:

Xã hội là toàn bộ những nhóm người, những tập đoàn người, những lĩnh vực hoạt động, những yếu tố hợp thành một tổ chức được điều khiển bằng một thể chế nhất định

Đơn vị xã hội cơ bản, sơ đẳng nhất là gia đình

Gia đình là một tế bào của XH, là một XH thu nhỏ mà quan hệ giữa người với người dựa trên một loạt các nguyên tắc

=> Cơ cấu và chức năng của GĐ cũng phụ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể của từng dân tộc, từng cộng đồng

Cá nhân và xã hội:

XH VN là XH nông nghiệp, nền VH cũng là VH nông nghiệp

Đơn vị XH cơ sở của VN: gia đình, họ hàng, làng mạc

=> Các giá trị gia đình và cộng đồng được đặt lên trên giá trị cá nhân, cá nhân bị hòa tan trong cộng đồng

3 nguyên lí cơ bản tập hợp con người thành XH:

Cùng cội nguồn/cùng dòng máu: hằng số của văn hóa dân gian

Cùng chỗ = quan hệ hàng xóm láng giềng

Cùng lợi ích: nguyên lí của các quan hệ tầng lớp, giai cấp, nghề nghiệp, giới tính

Sự xã hội hóa cá nhân và sự nhập thân văn hóa

Xã hội hóa là một quá trình tương tác xã hội kéo dài suốt đời, qua đó cá nhân phát triển khả năng con người và học hỏi các mẫu văn hóa của mình

Nói cách khác đó là quá trình con người liên tục tiếp thu văn hóa vào nhân cách của mình để sống trong xã hội như là một thành viên

Môi trường xã hội hóa cá nhân:

Gia đình là MTXH hóa đầu tiên và quan trọng bậc nhất của mỗi cá nhân=> bối cảnh môi sinh gia đình - tộc họ - xóm làng là nơi con người nhập thân văn hóa xã hội hóa cá nhân đầu tiên

Trường học và các tổ chức trước tuổi đi học là nơi các cá nhân thu nhận các kiến thức KH cơ bản về TN và XH, kiến thức VH chủ yếu làm nền tảng cho cuộc sống sau này

Các nhóm thành viên: giúp cá nhân thu nhận kinh nghiệm xã hội

Phương tiện thông tin đại chúng: một kênh quan trọng để phổ biến VH, giúp con người hiểu được những mẫu VH của mình và các nền VH khác

Phổ hệ (cơ cấu) XH VN cổ truyền

Đặc điểm của MT XHVN:

VỊ trí địa lí: nằm ở giao điểm các nền văn hóa lớn

Về lịch sử: lịch sử đấu tranh chống xâm lược từ phương Bắc và mở rộng bờ cõi về phương Nam

Văn hóa: thống nhất trong đa dạng

Đặc trưng VH: VH nông nghiệp lúa nước, mang tính chất tiểu nông, duy tình với cơ cấu tĩnh

Phổ hệ xã hội Việt Nam truyền thống: Cá nhân-Gia đình-Dòng họ-Làng-Vùng (miền)-Quốc gia

=> XHVN là XH nông nghiệp; VHVN là VH nông nghiệp

=> Gia đình và làng là đơn vị xã hội cơ sở, là hai yếu tố cơ bản chi phối toàn bộ hệ thống xã hội Việt Nam

=> Đặc trưng của cơ cấu XHVN truyền thống là những gia đình tiểu nông trong những làng xã tiểu nông

Đặc điểm gia đình của người Việt:

Số đông là gia đình hạt nhân

Mang nhiều nét đặc thù Á Đông

Cơ cấu kinh tế tự cung tự cấp

Theo chế độ phụ quyền (tính chất đối ngoại)

Phụ nữ đóng vai trò quan trọng trong gia đình

Gắn bó chặt chẽ với dòng họ

=> Đặc thù gia đình người Việt cổ truyền: vỏ Tàu lõi Việt

Làng của người Việt:

Làng là đơn vị cư trú cơ bản của nông thôn Việt Nam được tổ chức dựa vào hai nguyên tắc chủ yếu: cội nguồn và cùng chỗ

Một mặt làng có sức sống mãnh liệt, mặt khác làng là một cấu trúc động, không có làng bất biến

Đặc trưng của làng Việt Nam:

Ý thức cộng đồng

Ý thức tự quản

Nét độc đáo riêng của mỗi làng trong tập quán, nếp sống, giọng nói, cách ứng xử

Đô thị Việt Nam

Đô thị xuất hiện chậm và ít

Đô thị Việt Nam trước hết là trung tâm chính trị, rồi từ đó mới là kinh tế và văn hóa

CHo đến thế kỉ XVI, Đại Việt chỉ có một đô thị là Thăng Long (Kẻ Chợ)

Đô thị mang đặc tính của nông thôn

Tư duy nông nghiệp, căn tính nông dân ảnh hưởng rất lớn đến cư dân đô thị Việt Nam

Đô thị có nguy cơ bị nông thôn hóa

Từ Làng đến Nước:

Nước là sự mở rộng của làng

Chức năng nhiệm vụ của nước cũng như chức năng nhiệm vụ của làng-ứng phó với môi trường tự nhiên và ứng phó với môi trường xã hội, nhưng khác nhau về quy mô

Ở phạm vi nước, tính cộng đồng làng xã được chuyển thành tinh thần đoàn kết toàn dân, tính tự trị được chuyển thành ý thức độc lập dân tộc và lòng yêu nước mãnh liệt

5. Biến đổi xã hội và biến đổi văn hóa

Văn hóa VN là một nền VH thống nhất trong đa dạng

Trong quá trình phát triển, VHVN đã tiếp nhận không ít yếu tố ngoại sinh tạo nên sắc thái đặc thù là sự hỗn dung VH

Sự biến đổi VH ấy thể hiện rõ tâm thức Việt là sự khoan hòa

Mặt bằng chung cho mọi thời đại VH-VM: nông dân-nông nghiệp và xóm làng


TIẾP XÚC VÀ GIAO LƯU VĂN HÓA

KHÁI NIỆM TIẾP XÚC VÀ GIAO LƯU VĂN HÓA

Tiếp xúc văn hóa:

Tiếp xúc văn hóa là hiện tượng nền văn hóa của cộng đồng này gặp gỡ hoặc ở gần đến mức có thể trực tiếp chịu tác động gây ra sự biến đổi văn hóa của cộng đồng khác

Đây là giai đoạn đầu, là điều kiện dẫn đến sự giao lưu văn hóa

Giao lưu văn hóa:

Là sự tiếp xúc và trao đổi qua lại trong một quá trình liên tục, lâu dài, trực tiếp giữa hai nền văn hóa của hai cộng đồng người khác nhau, gây ra sự biến đổi mô thức văn hóa ban đầu

Đây là sự vận động thường xuyên của văn hóa=> Động lực phát triển của VH và động lực tiến hóa của xã hội

Giao lưu và tiếp biến VH là sự tiếp biến VH nước ngoài bởi dân tộc chủ thể, gồm 3 mức:

Không tiếp nhận toàn bộ mà chỉ chọn lọc lấy những giá trị thích hợp cho dân tộc mình

Tiếp nhận cả hệ thống nhưng đã có sự sắp xếp lại của tộc người chủ thể

Mô phỏng và biến thể một số thành tựu của VH tộc người khác bởi tộc người chủ thể


II. GIAO LƯU VÀ TIẾP BIẾN TRONG VĂN HÓA VIỆT NAM

Cơ tầng văn hóa Đông Nam Á (VH bản địa)

Tổng quan về khu vực ĐNA thời cổ đại:

Là nơi cư trú của đại chủng Ôtralôit

Là nền VH lúa nước với 3 yếu tố: VH núi, đồng bằng và biển=> Yếu tố đồng bằng tuy có sau nhưng đóng vai trò chủ đạo

Thành tựu VH thời kì này là thành tựu chung của cả khối cư dân sống trong khu vực ĐNA cổ đại

Các yếu tố tạo nên cơ tầng VH ĐNA:

Cư dân chuyển từ trồng củ sang trồng lúa

Trâu, bò được thuần hóa và dùng làm sức kéo

KIm khí, chủ yếu là đồng và sắt được dùng để chế tạo công cụ, vũ khí và dụng cụ nghi lễ

Cư dân thành thạo nghề đi biển

NGười phụ nữ có vai trò quyết định trong mọi công việc của gia đình

Đời sống tinh thần của cư dân vẫn ở dạng bái vật giáo với việc thờ các thần

Tổ tiên được thờ phụng

Tư duy: đã có quan niệm về tính chất lưỡng phân, lưỡng hợp về thế giới

Cư dân biết làm nhà ở

Sử dụng các ngôn ngữ đơn tố có khả năng phát sinh phong phú tiền tố hậu tố và trung tố

Biết sử dụng một số loại cây cỏ có trong tự nhiên để làm thuốc chữa bệnh

2. Giao lưu và tiếp biến với VH Trung Hoa:

Là sự giao lưu tiếp biến lâu dài trong nhiều thời kì lịch sử của VN

Có cả 2 trạng thái giao lưu VH cưỡng bức và tự nguyện

Giao lưu cưỡng bức:

*Từ thế kỉ I đến X (Bắc thuộc):

Đặc điểm lịch sử:

Sự suy tàn của nền văn minh Văn Lang-Âu Lạc

Người Hán thực hiện chính sách đồng hóa, tiêu diệt VH của cư dân bản địa

Người Việt luôn có ý thức đối kháng bất khuất và thường trực với nguy cơ xâm lược từ phương Bắc

Là giai đoạn mở đầu cho quá trình giao lưu-tiếp nhận VH Trung Hoa và khu vực

Thành tựu văn hóa: Người Việt tiếp nhận

Kĩ thuật rèn, đúc sắt và gang

Kinh nghiệm chất đá làm đê ngăn sóng biến

Kĩ thuật dùng phân bắc bón ruộng

Chữ Hán=> Trên cơ sở đó người Việt đã sáng tạo ra chữ Nôm

Tiếng Việt biến đổi theo xu hướng âm tiết hóa và thanh điệu hóa

*Thời kì 1407-1427 (Minh thuộc)

Là lần giao lưu cưỡng bức thứ hai với VH TH

Nhà Minh tìm mọi cách thủ tiêu nền VH Đại Việt

Nhiều cuộc khởi nghĩa chống quân Minh diễn ra

=> Đặc điểm lịch sử thời kì Đại Việt:

Là đỉnh cao thứ hai trong lịch sử VH VN

Là thời kì dung hòa Tam giáo

Thời Lý-Trần là thời kì hưng thịnh của Phật giáo

Thời Lê xu hướng tiếp nhận VH TH trở thành chủ đạo (Nho giáo được đưa lên làm quốc giáo)

Thời kì giao lưu tự nguyện:

Các triều đại phong kiến VN đã học tập mô hình chính trị TH

Học tập giai cấp phong kiến TH mô hình tổ chức xã hội

Người Việt vừa tiếp nhận VH TH vừa giữa độc lập dân tộc, chống xâm lược phương Bắc

Do đặc điểm lịch sử XHVN nên VH VN vẫn có nét khác biệt

3. Tiếp xúc và giao lưu với VH Ấn Độ:

Người Ấn Độ đã vào VN từ TCN bằng con đường buôn bán

VH Ấn Độ vào VN hoàn toàn tự nguyện và có ảnh hưởng sâu sắc đến VH VN

Qua các thời kì lịch sử, mức độ của quan hệ giao lưu này cũng khác nhau

=> Các nền VH VN thiên niên kỉ đầu sau CN:

VH Óc Eo:

Chỉ tồn tại từ TK I-VIII nên khó nhận diện được ảnh hưởng của VH Ấn Độ đến nền VH này

Đây là nền văn hóa được xây dựng trên cơ sở nền nông nghiệp trồng lúa nước phát triển bắt nguồn từ vùng ruộng nương sông Cửu Long của cư dân Môn-Khơ me + nghề biển cổ truyền của cư dân Nam Đảo=> Trên cơ tầng này các giáo sĩ Balamon từ Ấn Độ đã tổ chức 1 quốc gia mô phỏng theo mô hình Ấn Độ trên tất cả các mặt

VH Ấn Độ có ảnh hưởng đậm nét với VH Óc Eo trên các phương diện: từ tổ chức chính trị, thiết chế xã hội đến kiến trúc, tín ngưỡng tôn giáo

Văn hóa Chămpa:

VH Ấn Độ góp phần quan trọng vào sự hình thành nên vương quốc Chămpa và sự phát triển rực rỡ của nền văn hóa Chămpa

NGười Chăm tiếp nhận VH Ấn Độ trên rất nhiều phương diện đồng thời biến đổi để phù hợp với điều kiện KT-XH

Văn hóa Việt ở Bắc Bộ:

Trước khi VH Ấn Độ tràn vào, VH Việt đã định hình và phát triển

Người Việt tiếp nhận VH Ấn Độ vừa trực tiếp vừa gián tiếp trong hoàn cảnh rất đặc biệt

Vì người Việt tiếp nhận văn hóa Ấn Độ trong khi đang phải vừa tiếp nhận văn hóa Hán vừa đối phó chính trị nên VH Ấn Độ chỉ thể hiện rõ sự ảnh hưởng sâu rộng trong tầng lớp dân chúng

4. Giao lưu và tiếp biến với VH phương Tây:

Diễn ra từ trước khi thực dân Pháp xâm lược VN thông qua buôn bán và truyền giáo

Thực sự diễn ra sau khi thực dân Pháp xâm lược VN

Vừa có giao lưu cưỡng bức và tự nguyện

Người Việt đã phản ứng một cách quyết liệt với việc người Pháp dùng văn hóa như một công cụ cai trị, tuy nhiên họ cũng tiếp nhận những giá trị, thành tố văn hóa mới, miễn sao chúng có tác dụng hữu ích trong công việc chống ngoại xâm, giành lại độc lập dân tộc

Quá trình giao lưu này đã khiến người Việt thay đổi cấu trúc lại nền văn hóa của mình, đi vào vòng quay của văn minh phương Tây giai đoạn công nghiệp=> VHVN thay đổi trên mọi phương diện:

Xuất hiện chữ Quốc ngữ, từ chỗ là loại chữ viết nội bộ tôn giáo được dùng như chữ viết của một nền văn hóa

Các phương tiện văn hóa như nhà in, máy in; báo chí, nhà xuất bản

Các thể loại, loại hình văn nghệ mới: tiểu thuyết, thơ mới, điện ảnh

Diện mạo VH đã thay đổi nhưng bản sắc dân tộc VN không bị đánh mất

KẾT LUẬN:

Giao lưu VH là sự vận động thường xuyên của XH và của VH

VN đã có quá trình giao lưu với nhiều VH lớn trên thế giới: Trung Hoa; Ấn Độ; phương Tây trên cơ tầng VH ĐNA

Sự tiếp xúc và giao lưu trên làm cho diện mạo của VHVN có nhiều thay đổi


NHỮNG THÀNH TỐ CỦA VĂN HÓA

VĂN HÓA NHẬN THỨC

ÂM DƯƠNG

Triết lý âm dương

Bản chất và khái niệm:

Xuất phát từ mong ước sự sinh sôi nảy nở của hoa màu và con người của cư dân làm nông nghiệp

Đất-trời và mẹ-cha chính là các cặp khái quát hóa đầu tiên trên con đường dẫn tới triết lí âm dương


2. Hai quy luật của triết lí âm dương

Quy luật thành tố: Không có gì hoàn toàn Âm hoặc hoàn toàn Dương, trong âm có dương và trong âm có dương

Muốn xác định tính chất âm dương của một vật, trước hết phải xác định được đối tượng so sánh

Để xác định tính chất âm dương của một vật, sau khi xác định được đối tượng so sánh, còn phải xác định cơ sở so sánh

Quy luật về quan hệ: Âm và Dương luôn gắn bó với nhau mật thiết và chuyển hóa cho nhau, âm cực sinh dương, dương cực sinh âm

3. Triết lí âm dương và tính cách người Việt

Tư duy lưỡng phân lưỡng hợp thể hiện qua khuynh hướng cặp đôi ở khắp nơi, từ tư duy đến cách sống, từ các dấu vết cổ xưa đến những thói quen hiện đại:

Cặp đôi trừu tượng Tiên-Rồng

Đi đôi từng cặp theo nguyên tắc âm dương hài hòa

Hình tượng Tổ quốc là một khối âm dương: Đất-Nước

Nhân đôi từng cặp những khái niệm vay mượn

Qua biểu tượng vuông tròn

Nhận thức rõ về triết lí âm dương ảnh hưởng đến tính cách người Việt:

Triết lí sống quân bình: trong cuộc sống, gắng không làm mất lòng ai; trong ăn ở gắng giữ sự hài hòa âm dương trong cơ thể và hài hòa với môi trường tự nhiên=> thậm chí còn được áp dụng cho người chết

Lối sống linh hoạt (thích nghi cao với hoàn cảnh và tinh thần lạc quan)

4. Hai hướng của triết lý âm dương

Cùng xuất phát từ nguyên lí âm dương, người xưa đã theo hai ngả khác nhau để có hai sản phẩm rất khác nhau là Ngũ hành và Bát quái:

Một hướng gọi âm dương là Lưỡng nghi và bằng phép nhân đôi thuần túy đã sản sinh ra những mô hình vũ trụ chặt chẽ với số lượng thành tố chẵn: 2 sinh 4 (Tứ tượng), 4 sinh 8 (Bát quái)

Hướng thứ hai tạo nên những mô hình vũ trụ bí ẩn với số lượng thành tố lẻ: 2 sinh 3 (Tam tài); 3 sinh 5 (Ngũ hành)

II. CẤU TRÚC KHÔNG GIAN CỦA VŨ TRỤ: MÔ HÌNH TAM TÀI NGŨ HÀNH

Tam tài:

Là một khái niệm bộ ba, ba phép: Thiên-Địa-Nhân

Nguyên lí hình thành tam tài: với lối tư duy tổng hợp và biện chứng, người xưa nhận ra các cặp âm dương trời-đất; trời-người; đất-người thực ra có mối liên hệ rất chặt chẽ với nhau, tạo nên một mô hình hệ thống gồm ba thành tố; Trời dương, Đất âm, Người ở giữa (âm so với Trời, dương so với Đất)

Ngũ hành:

Là sự kết hợp của 2 bộ tam tài Thủy-Hỏa-Thổ và Mộc-Kim-Thổ, Thổ là yếu tố chung

Kết hợp lại ta được bộ NĂM với số mối quan hệ đa dạng và phong phú hơn hẳn, trong đó Thủy-Hỏa là một cặp âm dương đối lập nhau rất rõ rệt, Mộc-Kim là cặp thứ hai, Thổ ở giữa điều hòa

Do có mức độ trừu tượng hóa cao, Ngũ hành không phải là 5 yếu tố mà là 5 loại vận động (hành=sự vận động)

Hà Đồ - cơ sở của ngũ hành:

Hà Đồ là một hệ thống gồm những nhóm chấm đen hoặc trắng sắp xếp theo những cách thức nhất định

Đây là sản phẩm mang tính triết lí sâu sắc của lối tư duy tổng hợp: tổng hợp giữa số học-hình học và tổng hợp cuộc đời các con số với cuộc đời con người (các số nhỏ từ 1-5 gọi là số sinh, nằm ở vòng trong; các số lớn từ 6-10 gọi là số thành, nằm ở vòng ngoài)

Ngũ hành theo Hà đồ

Hà Đồ đã trở thành cơ sở cho việc tạo nên Ngũ Hành trong sự tồn tại và phát triển của mình

Mỗi phương-nhóm số Hà đồ tiếp nhận một hành tương ứng:

Phương bắc, số 1-6: hành Thủy

Phương Nam, số 2-7: hành Hỏa

Phương Đông, số 3-8: hành Mộc

Phương Tây, số 4-9: hành Kim

Trung ương, số 5-10: hành Thổ

Ngũ hành xây dựng như thế chính là một mô hình 5 yếu tố về cấu trúc không gian của vũ trụ

Sự sắp xếp các hành theo phương cho thấy rõ nguồn gốc nông nghiệp của Ngũ hành=> Thứ tự đúng: Thủy-Hỏa-Mộc-Kim-Thổ

Giữa các hành có quan hệ tương sinh (hỗ trợ, giúp đỡ nhau) xác định giữa cặp hai hành theo chiều kim đồng hồ hoặc quan hệ tương khắc (hạn chế, gây trở ngại) theo hướng ngược chiều kim đồng hồ:

Thủy sinh Mộc, khắc Hỏa

Mộc sinh Hỏa, khắc Thổ

Hỏa sinh Thổ, khắc Kim

Thổ sinh Kim, khắc Thủy

Kim sinh Thủy, khắc Mộc

Ứng dụng của Ngũ hành:

Màu biểu: 2 màu đen, đỏ mang tính đối lập âm/dương rõ rệt nhất nên ứng với hai hành Thủy-Hỏa; 2 màu xanh trắng kém rõ rệt hơn ứng với hai hành Mộc-Kim; màu vàng ứng với hành Thổ ở trung ương

Vật biểu của 5 phương: Chim-phương Nam; Rồng-phương Đông; Hổ-phương Tây; Rùa-phương Bắc; Người-trung ương

Bùa Ngũ sắc, vải Ngũ sắc, vũ trụ Việt Nam có 5 phương 9 hướng theo Ngũ hành

Lựa chọn màu sắc

Bát quái

III. TRIẾT LÍ VỀ CẤU TRÚC THỜI GIAN CỦA VŨ TRỤ: LỊCH ÂM DƯƠNG VÀ HỆ CAN CHI

Lịch âm dương

Lịch thuần dương:

Phát sinh từ vùng văn hóa Ai Cập

Một năm có 365,25 ngày

Lịch thuần âm:

Phát sinh từ vùng văn hóa Lưỡng Hà

Một năm có 354 ngày

Lịch Á Đông mà thường được gọi là lịch âm thực chất là một thứ lịch âm dương: là sản phẩm của lối tư duy tổng hợp, kết hợp cả chu kì mặt trăng lẫn mặt trời qua 3 giai đoạn:

Định các ngày trong tháng theo mặt trăng: xác định trước hết hai ngày sóc-vọng (sóc=bắt đầu, ngày đầu tháng; vọng=ngày giữa tháng)

Định các tháng trong năm theo mặt trời: xác định các ngày tiết (tiết=thời tiết), trước hết là tiết đông chí và hạ chí, rồi thêm xuân phân và thu phân; sau khi có 4 tứ thời tính thêm 4 ngày khởi đầu cho 4 mùa, được tổng cộng 8 mốc gọi là bát tiết; tiếp tục phân nhỏ nữa thì được 24 tiết, mỗi tháng có 2 ngày tiết

Điều chỉnh bằng tháng nhuận (gần 3 năm sẽ có 1 tháng nhuận)

Hệ can chi (lục giáp):

Hệ can gồm 10 yếu tố: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý=> xây dựng trên cơ sở 5 hành phối hợp với âm dương (5x2) mà thành, vì vậy hệ này còn gọi là nhập can/thiên can

Hệ chi gồm 12 yếu tố: Tí, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi=> 6 cặp âm dương do Ngũ hành biến hóa mà ra nên được gọi là thập nhi chi/địa chi

Phối hợp các can chi ta được hệ đếm gồm 60 đơn vị dùng để gọi tên ngày, tháng, năm=> 60 năm gọi là một Hội

Để tính nhẩm năm dương lịch sang năm âm lịch: C= d [(D-3) : 60]

C= mã số tên năm can chi; D= năm dương lịch; d= số dư phép chia

Để tính nhẩm năm can chi sang năm dương lịch: D= C + 3 + (hx60)

h=số hội đã trôi qua (tính đến năm cần tìm)

IV. NHẬN THỨC VỀ CON NGƯỜI

Nhận thức về con người tự nhiên:

Theo quan hệ trên-dưới: từ ngực trở lên là dương; từ bụng trở xuống là âm

Theo quan hệ trước-sau: bụng là âm; lưng là dương

Trán-dương, cằm-âm; mu bàn tay-dương, lòng bàn tay-âm; mu bàn chân-dương, gan bàn chân-âm; mặt trước cẳng chân-dương, bụng chân-âm

Với ngũ tạng, đó là các nhóm chức năng với các đại diện: thận-cật=sự phát dục, chứa tinh; tâm-quả tim=huyết mạch, chứa thần minh; can-gan=trữ máu; phế-phổi=khí và hô hấp; tì-lá lách= dinh dưỡng và vận hành thức ăn=> Với ngũ phủ cũng vậy

Những mối liên hệ hệ thống với cơ chế Ngũ hành chính là cơ sở của cách chẩn đoán và chữa bệnh Đông y=> Mọi bệnh tật đều do mất quan bình âm dương

Trong con người quan trọng nhất là các tạng, nhất là tạng tâm và thận=> Y học Việt Nam coi trọng tạng thận


Mối liên hệ giữa các yếu tố trong ngũ hành là cơ sở của chẩn đoán và chữa bệnh Đông y: vị chua nhập gan; vị đắng nhập tim; ngọt nhập tỳ; cay nhập phổi; mặn nhập thận thuận theo theo ngũ hành mà dưỡng sinh

Cách nhìn cổ truyền về con người xã hội:

Ngũ hành trên khuôn mặt và bàn tay

Áp dụng vào xem Tử vi, tướng mặt

Tuy nhiên, phải xây dựng được các mô hình đúng →con người tồn tại trong không gian–thời gian và thừa hưởng các tính cách,đặc điểm di truyền, vì vậy dự đoán phải căn cứ vào 3 bình diện trên.

Tử vi cũng có nhiều khiếm khuyết,chỉ mới mô hình hóa được một thông số là thời gian→hiệu quả giải đoán còn thấp.

Tử vi, ngũ hành tương sinh, tương khắc,tam hợp,tam tai chỉ mang tính tương đối. Chúng ta nên tham khảo, không nên tin tuyệt đối làm ảnh hưởng tới cuộc sống và công việc của mỗi người

Người xưa đã vận dụng mối quan hệ mật thiết giữa con người và vũ trụ để áp dụng vào xem xét con người và ngược lại lấy con người làm trung tâm để xem xét đánh giá tự nhiên.


TÔN GIÁO

KHÁI QUÁT VỀ TÔN GIÁO

Khái niệm:

Là niềm tin tưởng, sùng bái những lực lượng tự nhiên, thần thánh, những lực lượng này quyết định số phận con người

Là một hiện tượng xã hội, một thành tố của văn hóa

Là một bộ phận trong đời sống tinh thần của con người

Tôn giáo có ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống xã hội

Các yếu tố cấu thành một tôn giáo:

Niềm tin đóng vai trò quan trọng

Giáo chủ

Giáo lý

Giáo đường

Giáo hội

Đặc điểm các tôn giáo ở Việt Nam

Việt Nam có nhiều hình thức tôn giáo

Các tôn giáo đều chung sống hòa bình với nhau

Các tôn giáo ngoại nhập khi vào Việt Nam đều chịu sự tác động của các tín ngưỡng bản địa

B. CÁC TÔN GIÁO CHÍNH Ở VIỆT NAM

Nho giáo:

Sự hình thành của nho giáo:

Nguồn gốc của Nho giáo:

Nho giáo hay còn gọi là Đạo Nho hay Đạo Khổng là hệ thống giáo lí của các nhà nho nhằm tổ chức xã hội có hiệu quả và xây dựng xã hội chính trị

Được hình thành thời Tây Chu, người đóng góp là Chu Công Đán và người phát triển là Khổng Tử (cũng thường được coi là người sáng lập Nho giáo)

Hai bộ sách kinh điển của Nho giáo:

Tứ thư:

Luận ngữ (các lời bàn luận): Tập hợp những lời dạy của Khổng Tử (học trò của Khổng Tử soạn)

Mạnh Tử: Ghi chép những lời dạy của Mạnh Tử, người bảo vệ xuất sắc tư tưởng của Khổng Tử (học trò của Mạnh Tử soạn) => Mạnh Tử đã khép lại giai đoạn hình thành Nho giáo (Nho giáo nguyên thủy/Nho giáo tiên Tần) hay còn gọi là tư tưởng Khổng-Mạnh

Đại học: Dạy phép làm người quân tử (Tăng Sâm soạn)

Trung dung: cách sống dung hòa không thiên lệch (Tử Tư soạn)

Ngũ kinh:

Kinh Thi: Sưu tập thơ ca dân gian, chủ yếu là đề tài tình yêu nam nữ=> dùng để giáo dục một tình cảm lành mạnh và cách thức diễn đạt tư tưởng khúc chiết rõ ràng

Kinh Thư: ghi lại những truyền thuyết và biến cố về các đời vua cổ, từ những người anh minh như Nghiêu, Thuấn đến tàn bạo như Kiệt, Trụ=> làm gương cho đời sau

Kinh Lễ: ghi chép lại những lễ nghi thời trước=> dùng làm phương tiện duy trì và ổn định trật tự xã hội

Kinh Dịch: khởi thủy vốn ghi chép về Âm dương, bát quái... ở dạng kí hiệu; sau được Khổng Tử giảng giải sâu rộng thêm và trình bày thứ tự rõ ràng cho dễ hiểu, dễ dùng hơn

Kinh Xuân Thu: Nguyên là sử kí của nước Lỗ, quê hương Khổng Tử, được ông chọn lọc và bình luận, chỉnh sửa để giáo dục các vua chúa

2. Nội dung cơ bản và sự phát triển của Nho giáo:

Để tổ chức xã hội cần đào tạo những người cai trị kiểu mẫu (người quân tử)=> Người quân tử cần:

Tu thân:

Đại "đạo": đạo là con đường, những mối quan hệ mà con người phải biết cách cư xử trong cuộc sống=> 5 đạo: vua tôi (quân thần); cha con (phụ tử); vợ chồng (phu phụ); anh em (huynh đệ); bạn bè (bằng hữu)=> ngũ luân: luân=thứ bậc, cư xử=> cách ứng xử hợp lí hơn cả là trung dung (dung hòa ở giữa)

Đạt "đức": theo Khổng Tử, nếu có 3 điều nhân-trí-dũng thì gọi là đạt đức=> Mạnh Tử bỏ từ dũng mà thay bằng lễ, nghĩa thành nhân, đức, lễ, nghĩa=> đời Hán thêm chữ tín thành 5 đức gọi là ngũ thường

Biết thi-thư-lễ-nhạc: "hưng khởi trong lòng là nhờ học Thi, lập thân được là nhờ biết Lễ, thành công được là nhờ có Nhạc"=> người cai trị không thể là dân võ biền mà phải có một vốn văn hóa toàn diện

Hành động: bổn phận của người quân tử là tề gia, trị quốc, bình thiên hạ=> kim chỉ nam cho mọi hành động trong việc cai trị là hai phương châm:

Nhân trị: cai trị bằng tình người, coi người như bản thân mình

Chính danh: mỗi người phải làm đúng với chức phận của mình=> chính danh trong cai trị là phải làm sao để "vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con"

Xét về ngọn nguồn: Nho giáo = truyền thống du mục phương Bắc + truyền thống nông nghiệp phương Nam

Tinh hoa của truyền thống du mục phương Bắc thể hiện nổi bật ở các điểm:

Tham vọng "bình thiên hạ", coi nhẹ quốc gia=> tư tưởng "bá quyền", cho rằng chỉ có mình là trung tâm, còn "tứ di" xung quanh là "bỉ lậu" cả

Truyền thống trọng sức mạnh của văn hóa gốc du mục thể hiện trong chữ "dũng"

Quan niệm về một xã hội trật tự ngăn nắp, có tôn ti rõ ràng là sản phẩm của nếp sống chặt chẽ kỉ cương

Tinh hoa của truyền thống nông nghiệp phương Nam:

Lối sống trọng tình của người nông nghiệp phương Nam=> đề cao chữ "Nhân" và nguyên lí "Nhân trị"

Tinh thần dân chủ của văn hóa nông nghiệp phương Nam=> coi trọng dân=> các quan hệ trong ngũ luân luôn được lí giải trong tinh thần quan hệ hai chiều bình đẳng, tôn trọng con người: quân minh thần trung; phụ từ tử hiểu; phu nghĩa phụ kính; huynh lương đệ dễ; bằng hữu hữu tín

Coi trọng văn hóa, đặc biệt là văn hóa tinh thần

=> Cố gắng tổng hợp tinh hoa của hai truyền thống văn hóa trái ngược nhau trong hoàn cảnh xã hội đầy biến động đã khiến cho học thuyết của Khổng Tử không tránh khỏi mâu thuẫn

=> Bi kịch của Nho giáo:

Thành công: trở thành hệ tư tưởng và công cụ tinh thần bảo vệ chế độ phong kiến Trung Hoa => được truyền bá và có ảnh hưởng tới nhiều nước Đông Á

Thất bại: Cai trị theo lối nhân trị đi ngược lại với sự cai trị bằng vũ lực và pháp trị của các bậc đế vương => nhà Tần đốt sách, chôn Nho

=> Xét về hình thức thì Nho giáo thắng, nhưng trên thực tế là đạo Khổng thua

=> Nhà Hán đã chọn Nho giáo nhưng lại sửa đổi, cải tạo Nho giáo để biến nó thành một công cụ cai trị và phục vụ cho vương triều

3. Quá trình thâm nhập, phát triển và những đặc điểm của Nho giáo Việt Nam:

Quá trình xâm nhập và phát triển:

Thời Bắc thuộc: Nho giáo chưa có chỗ đứng trong xã hội Việt Nam

Từ thời Lý: Nho giáo được tiếp nhận chính thức=> Nho giáo ở Việt Nam chủ yếu là Tống Nho

Đời Trần: các nhà Nho những lớp đầu tiên này ra sức bài xích Phật giáo để khẳng định chỗ đứng của mình=> cho đến cuối thời Trần, Nho giáo vẫn chưa được chấp nhận rộng rãi

Thời Hậu Lê: Nho giáo độc tôn do sự lớn mạnh của Nho giáo Việt Nam (điều kiện chủ quan) + nhu cầu cải cách quản lí đất nước (yêu cầu khách quan)

Suy yếu thế kỉ XVIII (Lê mạt) và tàn lụi đầu thế kỉ XX (nhà Nguyễn)

=> Nét độc đáo của văn hóa Việt Nam là khi tiếp thu cái ngoại lai, nó tiếp nhận từng yếu tố riêng lẻ và Việt Nam hóa để rồi cấu tạo lại theo cách của mình

Những yếu tố mà Việt Nam tiếp nhận từ Nho giáo:

Nhà nước phong kiến Việt Nam chủ động tiếp nhận Nho giáo chính là để khai thác những yếu tố là thế mạnh của Nho giáo, thích hợp cho việc tổ chức và quản lí đất nước

Học tập cách thức tổ chức triều đình và hệ thống pháp luật của người Trung Hoa

Học tập hệ thống thi cử để tuyển chọn người tài bổ dụng vào bộ máy cai trị (từ đầu triều Lí, hoàn thiện dần vào thời Trần và hoàn chỉnh vào thời Lê)=> kì thi đầu tiên năm 1075 đến kì thi cuối cùng năm 1919

Người Việt sử dụng chữ Hán làm văn tự chính thức trong giao dịch hành chính

Trên cơ sở chữ Hán, người Việt đã sáng tạo ra chữ Nôm

Những yếu tố mà Nho giáo bị biến đổi khi vào Việt Nam:

Xu hướng ưa ổn định: vốn từ ổn định trong đối nội, phát triển trong đối ngoại=> ở Việt Nam, nhu cầu duy trì sự ổn định không chỉ có ở dân mà còn ở cả triều đình, không chỉ trong đối nội mà cả đối ngoại

=> Để duy trì sự ổn định, làng xã Việt Nam đã tạo nên sự lệ thuộc của cá nhân vào tập thể cộng đồng bằng cách phân biệt dân cư, cộng đồng hóa lĩnh vực hôn nhân, sử dụng bộ máy dư luận

=> Nhà nước Nho giáo đã tạo ra sự phụ thuộc của bộ máy quan lại vào nhà máy cầm quyền bằng 2 biện pháp kinh tế (nhẹ lương nặng bổng) và tinh thần (trọng đức khinh tài)

Xu hướng trọng tình: đối với người bình dân, "nhân" đồng nghĩa với "tình"; việc trọng tình được bổ sung bằng truyền thống dân chủ của văn hóa nông nghiệp; tiếp nhận chữ "hiếu" trong mối quan hệ bình đẳng với cả cha và mẹ

Tư tưởng "trung quân" gắn liền với "ái quốc": do Việt Nam tiếp thu tư tưởng trung quân trên cơ sở tinh thần yêu nước và tinh thần dân tộc sẵn có => khi xuất hiện mâu thuẫn giữa vua với đất nước, dân tộc thì đất nước, dân tộc là cái quyết định

Xu hướng trọng văn: văn được coi trọng hơn hẳn võ

Tâm lý khinh rẻ nghề buôn

4. Ảnh hưởng Nho giáo tới lối sống, nếp sống của người Việt Nam:

Ý thức về mệnh trời

Ý thức nhà gắn liền với nước

Ý thức vua gắn liền với dân

Ý thức về con người có nhân cách

Ý thức về sự hiếu học, tôn sư

II. PHẬT GIÁO

Sự hình thành của Phật giáo:

Hình thành tại Ấn Độ vào khoảng thế kỉ VI TCN

Người sáng lập là thái tử Siddharta Gotama (Tất Đạt Đa Cồ-đàm): sinh năm 624 TCN khi đạo Balamon đang thống trị Ấn Độ với sự phân chia đẳng cấp xã hội sâu sắc

Chính nhờ nỗi bất bình của ông về sự phân chia đẳng cấp, kì thị màu da và đồng cảm với nỗi khổ của muôn dân mà một tôn giáo mới sẽ được hình thành

Năm 29 tuổi ông rời nhà đi tìm chân lý để giải thoát nỗi khổ, sau đó, ông cùng những người bạn đã đi truyền bá những tư tưởng của mình khắp vùng sông Hằng=> Buddha-bậc giác ngộ

Ngài qua đời năm 544 TCN, thọ 80 tuổi

Nội dung cơ bản của Phật giáo:

Là học thuyết về nỗi khổ và sự giải thoát=> Cốt lõi là Tứ diệu đế (Tứ thánh đế): bốn chân lý cao quý đưa con người đi đến chỗ giác ngộ

Khổ đế: chân lí về bản chất của nỗi khổ=> trạng thái buồn phiền phổ biến ở con người do sinh, lão, bệnh, tử do mọi nguyện vọng không được thỏa mãn

Tập đế/nhân đế: chân lí về nguyên nhân của nỗi khổ=> ái dục (ham muốn) và vô minh (kém sáng suốt)

Diệt đế: chân lí về cảnh giới diệt khổ=> nỗi khổ sẽ được tiêu diệt khi nguyên nhân gây ra khổ bị loại trừ (sự tiêu diệt khổ đau gọi là niết bàn)

Đạo đế: chân lí chỉ ra con đường diệt khổ=> con đường diệt khổ đòi hỏi phải rèn luyện đạo đức (giới); tư tưởng (định) và khai sáng trí tuệ (tuệ)=> 3 môn học được cụ thể hóa trong khái niệm bát chính đạo: chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh niệm, chánh định, chánh kiến, chánh tư duy, chánh tinh thần


Giáo lý của Phật giáo xếp thành 3 tạng:

Kinh tạng: các bài thuyết pháp của Phật và một số đệ tử

Luật tạng: các lời Phật dạy về giới luật và nghi thức sinh hoạt của chúng tăng

Luận tạng: những lời bàn luận

Phật giáo coi trọng Phật-Pháp-Tăng (tam bảo):

Phật-Đức Phật: người sáng lập ra Phật giáo

Pháp: giáo lý là cốt tủy của đạo Phật

Tăng chúng: người xuất gia tu hành=> bao gồm thượng tọa và đại chúng

Thượng tọa: theo xu hướng bảo thủ, chủ trương bám sát kinh điển, giữ nghiêm giáo luật; Phật tử phải tự giác ngộ cho bản thân mình, chỉ thờ Phật Thích Ca và chỉ tu đến bậc La Hán

Đại chúng: không cố chấp theo kinh điển, khoan dung đại lượng trong thực hiện giáo luật, thu nạp tất cả nhwungx ai muốn quy y, giác ngộ giải thoát cho nhiều người, thờ nhiều Phật và tu đến Phật

2. Quá trình thâm nhập và phát triển của Phật giáo ở Việt Nam

Phật giáo vào VN từ đầu CN và nhanh chóng phổ biến rộng khắp

=> Luy Lâu là trung tâm Phật giáo đầu tiên

Ban đầu là Phật giáo mang màu sắc Tiều thừa Nam tông: từ Buddha tiếng Phạn được phiên âm trực tiếp thành Bụt=> với người Việt Nam nông nghiệp, Bụt như một vị thần luôn có mặt ở khắp nơi, sẵn sàng xuất hiện cứu giúp người tốt và trừng trị kẻ xấu

Sang thế kỉ IV-V có thêm luồng Phật giáo Đại thừa Bắc tông tràn vào => Chẳng mấy chốc đã lấn át và thay thế luồng Nam tông trước đó, từ Buddha đã được phiên âm thành Phật và dần thay thế từ Bụt

3 tông phái Phật giáo Trung Hoa được truyền vào VN:

Thiền tông: tông phái do nhà sư Ấn Độ Bồ-đề-đạt-ma sáng lập ra ở Trung Quốc vào đầu thế kỉ VI; đề cao cái Tâm: Phật tại tâm, tâm là niết bàn, là Phật

Tịnh độ tông: chủ trương dựa vào sự giúp đỡ từ bên ngoài để cứu chúng sinh thoát khổ; hướng đến một cõi niết bàn cụ thể gọi là cõi Tịnh Độ; thường xuyên đi chùa lễ Phật, thường xuyên tụng niệm danh hiệu Phật A-di-đa=> Nhờ cách tu đơn giản, Tịnh Độ tông trở thành Phật giáo của giới bình dân và phổ biến khắp cõi Việt Nam

Mật tông: chủ trương sử dụng những phép tu huyền bí để thu hút tín đồ và mau chóng đạt đến giác ngộ và giải thoát=> Vào Việt Nam, Mật tông không tồn tại độc lập như một tông phái riêng mà nhanh chóng hòa vào dòng tín ngưỡng dân gian với những truyền thống như cầu đồng, dùng pháp thuật, yểm bùa trị tà ma và chữa bệnh

Thời Lý-Trần, Phật giáo phát triển đến mức cực thịnh=> An Nam tứ đại kí thời Lý-Trần: Tượng phật chùa Quỳnh Lâm; Tháp Báo Thiên; Chuông Quy Điền; Vạc Phổ Minh

Suy thoái từ thời Lê đến thế kỉ XIX

Phục hưng vào đầu thế kỉ XX và phát triển đến nay

Đặc điểm Phật giáo Việt Nam:

Tính tổng hợp:

Phật giáo vào VN đã hòa quyện với tín ngưỡng bản địa

Phật giáo VN là sự tổng hòa các tông phái với nhau

Phật giáo VN tổng hợp chặt chẽ với các tôn giáo khác: Phật với Nho, với Đạo

Phật giáo VN kết hợp chặt chẽ việc đạo với việc đời

Phật giáo VN có khuynh hướng thiên về nữ tính

Ở VN có cả Phật Ông-Phật Bà

Có nhiều chùa chiền mang tên các bà; tuyệt đại bộ phận Phật tử tại gia là các bà

Bồ tát QUan Thế Âm được biến thành Phật Bà Quan Âm phổ biến ở Đông Nam Á

Tính linh hoạt:

Tạo ra một lịch sử Phật giáo cho riêng mình

Coi trọng việc sống phúc đức hơn đi chùa

Đồng nhất một số vị thần trong tín ngưỡng truyền thống với Phật

Muốn giữ cho Phật ở mãi bên mình, người Việt Nam có khi phá cả giới Phật giáo

Tượng Phật VN mang dáng dấp hiền hòa và tên gọi rất dân gian; chùa Việt Nam được thiết kế theo phong cách ngôi nhà cổ truyền và trở thành công trình công cộng quan trọng thứ hai ở mỗi làng

=> Sự cải biến linh hoạt trên cơ sở tổng hợp đạo Phật với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đã tạo nên Phật giáo Hòa Hảo: lấy pháp môn Tịnh Độ làm căn bản, kết hợp với đạo của dân tộc thờ ông bà tổ tiên mà đề ra thuyết tứ ân: ơn tổ tiên cha mẹ, ơn đất nước, ơn tam bảo, ơn đồng bào và nhân loại

III. ĐẠO GIÁO

Quá trình hình thành và phát triển:

Được hình thành ở vùng Nam Trung Hoa vào sau thế kỉ thứ 2 trong phát triển nông dân khởi nghĩa; cơ sở lí luận là Đạo gia; người đề xướng là Lão Tử, Trang Tử hoàn thiện=> đạo/học thuyết Lão-Trang

Đạo của Lão Tử là một khái niệm trừu tượng chỉ cái tự nhiên, cái có sẵn trong tự nhiên

Đức là biểu hiện cụ thể của đạo trong từng sự vật, nhưng làm cho vật nào thành ra vật ấy và tồn tại được trong vũ trụ là do Đức

Sự từ Đạo sinh ra Đức, Đức trở về ở Lão Tử thấm nhuần tinh thần biện chứng âm dương của triết lí nông nghiệp

Chi phối bởi luật quân bình âm dương, vạn vật tồn tại theo lẽ tự nhiên rất hợp lí, công bằng, chu đáo và do vậy mà màu nhiệm

=> Triết lý sống tối ưu là muốn làm gì, phải đi từ điểm đối lập, phải vô vi (hòa nhập với tự nhiên đừng làm gì thái quá)

Đạo giáo thờ "Đạo" và tôn Lão Tử làm giáo chủ; coi mục đích của việc tu theo Đạo giáo là sống lâu

Hai phái đạo giáo:

Đạo giáo thần tiên: dạy tu luyện, luyện đan, dành cho quý tộc cầu trường sinh bất tử=> gồm ngoại dưỡng (dùng thuốc trường sinh-kim đan) và nội tu (rèn luyện thân thể, dùng các phép tu để trở về hư vô - đạo)

Đạo giáo phù thủy: dùng pháp thuật trừ tà chữa bệnh giúp dân thường mạnh khỏe

Sự thâm nhập và phát triển, đặc điểm của Đạo giáo ở VN

Thâm nhập:

Thâm nhập vào VN từ cuối thế kỉ II

Đạo giáo tìm được những nét tương đồng với tín ngưỡng dân gian

Phát triển:

Đạo giáo (phù thủy) đã được người dân sử dụng làm vũ khí chống lại kẻ thống trị

Trong thần điện của Đạo giáo phù thủy VN thờ cả các vị thần của Đạo giáo TRung Hoa và nhiều vị thần thánh khác do VN xây dựng

Thế kỉ XVII, dưới thời vua Lê Thần Tông xuất hiện trường phái Đạo giáo VN có quy mô lớn là Nội đạo

Đạo giáo thần tiên:

Phổ biến là phái Nội tu; ông tổ là Chử Đồng Tử

Sĩ phu VN xưa nay thường tổ chức phụ tiên để hỏi chuyện thời thế, đại sự

Nhiều đàn cầu cơ ở miền Nam là một trong những tiền đề cho sự ra đời của đạo Cao Đài

Có khuynh hướng ưa thanh tịnh nhàn lạc

Hiện nay: Đạo giáo với tư cách một tôn giáo đã tàn lụi từ lâu nhưng những hiện tượng đồng bóng, đội bát nhang, bùa chú.. vẫn lưu truyền như những di sản của tín ngưỡng dân gian truyền thống

=> Lý do người VN tiếp nhận đạo giáo:

Niềm tin về thuật phong thủy

Niềm tin tu tiên

Niềm tin tướng số

Niềm tin tôn thờ các vị anh hùng

IV. KITÔ GIÁO

Khái quát về Kito giáo:

Là tên gọi chung các tôn giáo cùng thờ chúa Giê su

Là tôn giáo của những người bị áp bức

Giáo lý là kinh thánh gồm 2 cuốn Cựu Ước và Tân Ước

Quan niệm về thế giới: niềm tin về Thiên chúa tiền định

Tổ chức: giáo xứ, giáo phận, giáo hội quốc gia và giáo triều Vatican

Quyền lực tối đa thuộc về giáo hoàng

Kitô giáo ở Việt Nam:

Giai đoạn đầu tiên diễn ra trên phương tiện tôn giáo và thương mại

Cuối năm 1642, Alexandre de Rhodes trở về châu Âu vận động tòa thánh Roma trao quyền truyền đạo tại Viễn Đông=> Một trong những giáo sĩ đã góp phần quan trọng vào quá trình truyền bá Công giáo tại Việt Nam

Cuộc nội chiến Nguyễn Ánh-Tây Sơn đã tạo điều kiện cho sự bành trướng của Hội truyền giáo nước ngoài và sự can thiệp về mặt chính trị của Pháp vào VN

Sau khi lên ngôi, Nguyễn Ánh chủ trương "bế môn tỏa cảng" và giữ nguyên trạng đạo Kitô, không khuyến khích phát triển

Nhà Nguyễn khôi phục Nho giáo làm quốc giáo để giữ ổn định chính trị

Thời vua Thiệu Trị, Minh Mạng, Tự Đức ra một loạt chỉ dụ Kito=> Pháp ép khiến vua Tự Đức phải kí hòa ước Nhâm Tuất và bỏ cấm đạo

Đến nay, Kito giáo đã có chỗ đứng vững chắc ở VN nhưng không thể trở thành đạo của số đông

Lý do Kito giáo không đạt đa số tại Việt Nam:

Kito giáo dính líu đến các cuộc xâm lược của Đế quốc phương Tây ở VN

Kito giáo trái ngược với văn hóa Việt Nam (tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên vốn đã rất lâu đời ở VN)

Ngày nay, giáo dân Kito giáo VN sống hòa bình trong lòng dân tộc, kính chúa gắn liền với yêu nước

C. KẾT LUẬN:

Ở VN có 4 tôn giáo lớn nhưng hiện nay chỉ còn tồn tại đạo Phật và đạo Kito, Nho giáo chỉ còn là một học thuyết về chính trị, Đạo giáo đã hòa mình vào các tín ngưỡng dân gian

Ở VN không có chiến tranh tôn giáo, các tôn giáo chung sống hòa bình với nhau

Các tôn giáo có vai trò quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần của người VN và đóng góp và sự phát triển của đất nước


TÍN NGƯỠNG

KHÁI NIỆM

Từ điển tiếng Việt (Nguyễn Như Ý chủ biên): "lòng tin và sự tôn thờ một tôn giáo"

Đào Duy Anh: "lòng ngưỡng mộ, mê tín đối với một tôn giáo hoặc một chủ nghĩa"

GS Ngô Đức Thịnh: "niềm tin của con người vào cái gì đó thiêng liêng, cao cả, siêu nhiên, hay nói gọn lại là niềm tin, ngưỡng vọng vào "cái thiêng", đối lập với cái "trần tục", hiện hữu mà ta có thể sờ mó, quan sát được

Trần Ngọc Thêm: "khi đời sống và trình độ hiểu biết còn thấp, họ tin tưởng và ngưỡng mộ vào những thần thánh do họ tưởng tượng ra"

=> Tín ngưỡng là hệ thống những niềm tin và cách thức biểu lộ đức tin của con người đối với những hiện tượng tự nhiên hay xã hội; nhân vật lịch sử hay huyền thoại có liên quan đến cuộc sống của họ nhằm cầu mong sự che chở, giúp đỡ từ những đối tượng siêu hình mà người ta thờ phụng

So sánh tín ngưỡng và tôn giáo:

Giống:

Đều là niềm tin với những thứ được truyền lại/truyền dạy, không thể cảm nhận bằng các giác quan

Đều có tác dụng điều chỉnh hành vi ứng xử giữa các cá thể với nhau, giữa cá thể với xã hội, cộng đồng

Khác:

CÁC TÍN NGƯỠNG CHÍNH

Tín ngưỡng phồn thực:

Xuất phát từ nhu cầu thiết yếu của con người thuộc nền VH nông nghiệp:

Duy trì sự sống=> mùa màng tươi tốt để sản xuất lúa gạo

Phát triển sự sống=> sản xuất con người

=> Hai hình thức sản xuất này có bản chất giống nhau: sự kết hợp của hai yếu tố khác loại (trời và đất, mẹ và cha)

Phồn thực gồm phồn=nhiều + thực=nảy nở

Hình thức thờ: thờ sinh thực khí (cơ quan sinh dục) và hành vi giao phối=> Tín ngưỡng phồn thực là mặt khác của triết lí âm dương

Phạm vi và hình thức biểu hiện:

Miền núi phía Bắc: thờ Nõ-Nường trong các lễ hội dân gian

Châu thổ Bắc bộ: thờ Chày-Cối; trong phong tục: lễ hội, ca dao, tranh dân gian

Miền Trung: thờ Linga và Yoni trong các lễ hội

Tây Nguyên: thể hiện trong kiến trúc, điêu khắc nhà mồ

Do vai trò quá lớn của tín ngưỡng phồn thực trong đời sống của người Việt cổ=> Trống đồng, biểu tượng sức mạnh và quyền lực của người xưa cũng là biểu tượng toàn diện của tín ngưỡng phồn thực

Thờ sinh thực khí (thờ cơ quan sinh dục nam nữ)

Sinh=đẻ + thực=nảy nở + khí=công cụ=> thờ cơ quan sinh dục của con người

=> Hình thái đơn giản của tín ngưỡng phồn thực, phổ biến ở các nền văn hóa nông nghiệp

Thờ tượng hình nam nữ với sinh thực khí phóng to

Thờ cột đá, hốc cây

Thờ cúng nõ nường (nõ=cái nêm, tương trưng cho sinh thực khí nam; nường=nang, tượng trưng cho sinh thực khí nữ)

Tổ chức các lễ hội rước sinh thực khí

Thờ hành vi giao phối:

Do cư dân trồng lúa nước với tư duy trọng quan hệ

Các hình thức thể hiện:

Tượng, hình ảnh nam nữ giao phối

Hình động vật giao phối

Cách gieo hạt của người Ê đê

Điệu múa tùng dí ở Phú Thọ

Giã gạo hát giao duyên

Lễ đâm sinh thực khí

Hội Rã La ở Hà Tây

Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên:

Từ văn hóa nông nghiệp=> gắn bó, phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau của thiên nhiên=> lối tư duy tổng hợp và tín ngưỡng đa thần

Chất âm tính=> lối sống thiên về tình cảm, trọng nữ, trọng tự nhiên=> tình trạng các nữ thần chiếm ưu thế

Cái đích hướng tới là sự phồn thực=> nữ thần là các bà mẹ, các Mẫu=> Tín ngưỡng thờ Mẫu và thờ động vật, thực vật

Tục thờ Mẫu (đạo Mẫu)

Tục thờ các Bà Trời, Bà Đất, Bà Nước-những nữ thần cai quản các hiện tượng tự nhiên mật thiết nhất với cư dân trồng lúa nước

Sau khi tiếp xúc với văn hóa Trung Hoa chuyển thành Mẫu Cửu Trùng (Cửu Thiên Huyền Nữ) song song tồn tại với Ngọc Hoàng, Thổ Công, Hà Bá

Ba bà được thờ chung dưới dạng tín ngưỡng TAM PHỦ cai quản ba vùng trời-đất-nước: Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thủy

Thờ các bà Mây-Mưa-Sấm-Chớp là các hiện tượng thiên nhiên quan trọng trong cuộc sống của cư dân lúa nước

Khi Phật Giáo vào Việt Nam, nhóm nữ thần trở thành Tứ Pháp: Pháp Vân (Thần Mây thờ ở chùa Bà Dâu), Pháp Vũ (Thần Mưa ở chùa Bà Đậu), Pháp Lôi (Thần Sấm ở chùa Bà Tướng), Pháp Điện (Thần Chớp thờ ở chùa Bà Đan)

Người Việt còn thờ các hiện tượng thiên nhiên theo không gian như Ngũ hành nương nương; coi sóc các phương trời có Ngũ phương chi thần; Ngũ đạo chi thần trông coi các ngả đường; Thập nhị hành khiển là thần thời gian, cũng là Mười hai bà mụ coi sóc việc sinh nở

Tín ngưỡng thờ động vật-thực vật:

Địa hình sông nước=> sùng bái chim, rắn, cá sấu

=> Thiên hướng nghệ thuật của loại hình văn hóa nông nghiệp còn đẩy các con vật này lên mức biểu tượng: Tiên, Rồng=> con cháu người Việt thuộc họ Hồng Bàng (một loài chim nước lớn); là con Rồng cháu Tiên (Tiên được trừu tượng hóa từ giống chim, Rồng được trừu tượng hóa từ rắn và cá sấu)

Đặc thù thực vật và lúa nước=> sùng bái cây cối: cây lúa, cây cau, cây đa, cây dâu, quả bầu

Tín ngưỡng sùng bái con người

Quan niệm về hồn và vía:

Con người = Thể xác + Tinh thần=> tinh thần trừu tượng, khó nắm bắt nên được thần thánh hóa thành linh hồn

Linh hồn có hồn (tinh, khí, thần) và vía (các quan năng)

Khi chết thì hồn đi sang thế giới bên kia, là một vùng sông nước, ngăn cách chúng ta bằng chín suối

Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên

Thể hiện qua quan niệm về thể xác và linh hồn=> Niềm tin chết là về với tổ tiên, tuy rằng ở nơi chín suối nhưng ông bà tổ tiên vẫn thường xuyên đi về thăm nom, phù hộ cho con cháu=> Thờ cúng tổ tiên

Ở người Việt, nó gần như trở thành một thứ tôn giáo, nhiều nơi gọi là Đạo Ông Bà

Tục thờ Thổ công:

Thổ công là một dạng khác của Mẹ Đất, là vị thần trông coi gia cư, phúc họa cho một gia đình

Khi thờ cúng, bàn thờ Thổ Công được đặt ở gian bên trái, là nơi quan trọng thứ hai sau trung tâm; tuy địa vị kém nhân thần nhưng quyền lực lại lớn hơn: Đệ nhất gia chi chủ

Ở Nam bộ, Thổ công được thay bằng ông Địa, nhiều nơi đồng nhất với Thần Tài

Tục thờ Thành hoàng làng:

Thành Hoàng là vị thần cai quản, che chở, định đoạt phúc họa của một làng

Thành Hoàng có thể là người có công, anh hùng liên quan đến làng được vua sắc phong, có thể là "tà thần"-những người có lí lịch không tốt chết vào giờ thiêng nên đã gây ra oai, làm cho dân làng nể sợ

Tục thờ Vua Tổ:

Tục thờ Vua Tổ-vua Hùng chỉ có duy nhất ở VN, vào ngày 10/3, gọi là ngày Giỗ tổ; Phong Châu, Phú Thọ là đất Tổ

Tục thờ Tứ bất tử:

Tản Viên: chống thiên tai, lũ lụt

Thánh Gióng: chống giặc ngoại xâm

=> Hai sự phối hợp, ứng phó với môi trường tự nhiên và xã hội dựng nên Đất Nước

Chử Đồng Tử: khát vọng làm giàu (ước mơ thứ nhất)

Liễu Hạnh: khát vọng tự do, hạnh phúc (ước vọng thứ hai)

=> Hai khát vọng thiêng liêng tạo nên Con Người

PHONG TỤC VÀ NGHỆ THUẬT

PHONG TỤC

Khái niệm:

Phong = gió + tục = thói quen=> phong tục = thói quen lan rộng

Trần Ngọc Thêm: "Phong tục là những thói quen ăn sâu vào đời sống xã hội từ lâu đời, được đa số mọi người thừa nhận và làm theo"

Các phong tục cơ bản:

Phong tục hôn nhân:

Hôn nhân = lập gia đình, lấy vợ lấy chồng thông qua các nghi thức

Hôn nhân: cưới xin - hôn thú - giá thú - lễ cưới - đám cưới - cưới

Đặc trưng của phong tục hôn nhân truyền thống:

Xuất phát từ quyền lợi của gia tộc:

Việc hôn nhân tuy của hai người nhưng kéo theo việc xác lập quan hệ giữa hai gia tộc=> Điều cần làm đầu tiên là lựa chọn một dòng họ, một gia đình xem hai bên có môn đăng hộ đối không

Với cộng đồng gia tộc, hôn nhân là công cụ duy nhất và thiêng liêng để duy trì dòng dõi và phát triển nguồn nhân lực=> Để đáp ứng nhu cầu nhân lực của nghề trồng lúa, khi xem xét con người trong hôn nhân, người nông nghiệp Việt Nam quan tâm trước hết đến năng lực sinh sản của họ

Không chỉ duy trì dòng giống, người con tương lai còn có trách nhiệm làm lợi cho gia đình

Đáp ứng các quyền lợi của làng xã: nhằm đảm bảo sự ổn định của làng xã=> hình thành quan niệm chọn vợ chồng cùng làng

=> Lịch sử hôn nhân Việt Nam luôn là lịch sử hôn nhân vì lợi ích của cộng đồng, tập thể

Khi các quyền lợi của tập thể cộng đồng đã được đáp ứng cả rồi, lúc ấy mới lo đến nhu cầu riêng tư: sự phù hợp của đôi trai gái xét bằng cách hỏi tuổi (lễ vấn danh/chạm ngõ, dạm); có các tục nhằm duy trì mối quan hệ bền vững giữa hai vợ chồng; đồng thời cũng quan tâm đến quan hệ mẹ chồng-nàng dâu

Các bước tiến hành của lễ cưới truyền thống:

Lễ nạp thái: sau khi nghị hôn, nhà trai mang sang nhà gái một cặp "nhạn" để tỏ ý đã kén chọn ở nơi ấy

=> Vấn danh: là lễ do nhà trai sai người làm mối đến hỏi tên tuổi và ngày sinh tháng đẻ của người con gái

=> Nạp cát: lễ báo cho nhà gái biết rằng đã xem bói được quẻ tốt, nam nữ hợp tuổi nhau thì lấy được, nếu tuổi xung khắc thì thôi

=> Nạp tệ: (nạp trưng) lễ nạp đồ sính lễ cho nhà gái, tang chứng cho sự hứa hôn chắc chắn

=> Thỉnh kỳ: lễ xin định ngày giờ làm rước dâu

=> Thân nghinh: đúng ngày giờ đã định, họ nhà trai mang lễ đến để rước dâu về

>< Hôn nhân ngày nay:

Trai gái tự do tìm hiểu quyết định hôn nhân

Các nghi lễ cưới xin vẫn giữ một số thủ tục truyền thống nhưng đã giản lược, gọn nhẹ hơn rất nhiều: lễ dạm ngõ (truyền thống) => lễ ăn hỏi (truyền thống) => lễ cưới (truyền thống + hiện đại)

Phong tục tang ma

Mâu thuẫn giữa hai thái cực "đưa tiễn" và "xót thương":

Đưa tiễn: quan niệm chết là về với thế giới vĩnh hằng và thói quen sống bằng tương lai khiến người Việt thường bình tĩnh, yên tâm đón chờ cái chết=> thường chuẩn bị sẵn cho cái chết của mình: mua sẵn quan tài, tìm đất, xây sinh phần

Xót thương: con cháu kêu gào, than khóc, níu giữ, cúng giỗ, gọi hồn=> đau buồn nên mặc vải xô gai, đội mũ dây chuối, đầu bù tóc rối, chân trần, chống gậy, lăn đường

Thể hiện tính cộng đồng: bà con láng giềng giúp rập, để tang cho nhau

Thấm nhuần tinh thần triết lý âm dương-ngũ hành:

Dùng màu trắng là màu của hành Kim (hướng Tây-hướng xấu) theo Ngũ hành

Sau màu trắng là màu đen (hành Thủy-phương Bắc); chỉ khi chắt, chút để tang cụ, kị mới dùng các màu tốt như đỏ (phương nam) và vàng (trung ương)

Theo triết lí âm dương, âm ứng với số chẵn, dương ứng với số lẻ nên mọi thứ liên quan đến người chết đều là số chẵn

Phân biệt tang cha với tang mẹ

Thừa kế tinh thần dân chủ truyền thống: cha mẹ cũng phải để tang con; ông bà cụ kị cũng để tang hàng cháu, hàng chắt

Phong tục lễ hội và lễ Tết:

Lễ hội:

Phân bố theo không gian, mỗi vùng có lễ hội riêng của mình

Lễ hội = lễ (mang ý nghĩa tạ ơn và cầu xin thần linh bảo trợ cho cuộc sống) + hội (các trò vui chơi)

Phần lễ:

Lễ hội liên quan đến cuộc sống trong QH với MTTN: lễ hội cầu mưa, xuống đồng; đâm trâu; cơm mới; đua thuyền

Liên quan đến cuộc sống trong QH với MTXH: Hội đền Hùng; Gióng; Đền Trần...

Liên quan đến cuộc sống cộng đồng: Hội chùa Hương; Phủ Giầy; núi Bà Đen

Phần Hội: các trò chơi=> xuất phát từ những ước vọng thiêng liêng của con người nông nghiệp

Ước vọng cầu mưa: thi đốt pháo, ném pháo, đánh pháo đất

Ước vọng cầu cạn: thả diều mong gió lên nắng lên để nước lụt mau rút

Ước vọng phồn thực: cướp cầu thả lỗ; đánh đáo; ném còn

Ước vọng rèn luyện sự nhanh nhẹn, tháo vát, khéo léo: vừa gánh vừa thổi cơm, thi luộc gà, thi dọn cỗ

Ước vọng rèn luyện sức khỏe và khả năng chiến đấu: đấu vật, kéo co, chọi gà

Ý nghĩa xã hội và giá trị của lễ hội:

Hội làng là một công đoạn trong chu trình sống và lao động của người dân

Hội làng được tiến hành do lực lượng chủ thể là nông dân trong không gian nông thôn và đề tài chủ yếu là nông nghiệp

Lễ hội thể hiện truyền thống, lối sống cộng đồng và biểu tượng tôn giáo

Là sản phẩm của lịch sử, hội làng mang trong nó cả tập quán của quá khứ (tốn thời gian, sức người, sức của)

Ý nghĩa văn hóa của xã hội:

Thể hiện ý thức tự do, bình đẳng

Duy trì ý thức nhớ về cội nguồn

Là dịp để truyền đạt thông tin, chuyển giao văn hóa

Là dịp để sáng tạo văn hóa

Là dịp để tăng liên kết cộng đồng

Lễ tết:

Phân bố theo thời gian trong năm, xen kẽ với các khoảng trống trong lịch thời vụ

Lễ tết gồm 2 phần: cúng tổ tiên (lễ) và ăn uống bù cho những lúc làm lụng vất vả (tết)

Trong năm, quan trọng nhất là Tết Nguyên Đán/Tết ta=> Đặc trưng văn hóa điển hình nhất của Tết Nguyên Đán là nếp sống cộng đồng: đi chợ Tết; gia đình, gia tiên và gia thần sum họp đầy đủ; tục mừng tuổi

Ngoài Tết Nguyên Đán còn có các Tết:

Tết rằm tháng Giêng/Tết Thượng Nguyên

Tết Trung Nguyên (rằm tháng 7); Trung Thu (rằm tháng 8); Hạ Nguyên (rằm tháng 10)

Tết Hàn Thực 3/3; Đoan Ngọ 5/5; Tết Ngâu 7/7

Tết Ông Táo 23 tháng chạp


B. NGHỆ THUẬT

Văn hóa giao tiếp & nghệ thuật ngôn từ:

Văn hóa giao tiếp:

Đặc trưng văn hóa giao tiếp cơ bản của người VN:

Thái độ giao tiếp: vừa thích giao tiếp lại vừa rất rụt rè

Tính cộng đồng, coi trọng việc gìn giữ các mối quan hệ tốt=> đặc biệt coi trọng và thích giao tiếp: thích đi thăm viếng và hiếu khách

Rất rụt rè

=> Sự tồn tại đồng thời hai tính cách này là do hai đặc tính cơ bản của làng xã Việt Nam: tính cộng đồng (ở trong phạm vi cộng đồng quen thuộc) và tính tự trị (ở ngoài cộng đồng xa lạ)

Quan hệ giao tiếp: lấy tình cảm làm nguyên tắc ứng xử=> trọng tình hơn lý

Người Việt đối với Đối tượng giao tiếp: ưa tìm hiểu, quan sát, đánh giá=> hỏi tên, tuổi, gia đình=> sản phẩm của tính cộng đồng

=> Mặt khác, do trọng tình nên mỗi cặp giao tiếp sẽ có xưng hô riêng

Người Việt khi là Chủ thể giao tiếp: trọng danh dự=> bệnh sĩ diện, cơ chế tin đồn

Cách thức giao tiếp: người Việt ưa sự tế nhị, ý tứ và trọng sự hòa thuận=> vòng vo, cân nhắc, đắn đo, nhường nhịn=> thiếu quyết đoán, nể nang

Nghi thức lời nói phong phú bao gồm:

Hệ thống từ xưng hô phong phú: có tính chất thân mật hóa; cộng đồng hóa cao (chú khi ni, mi khi khác); tính tôn ti kĩ lưỡng

Cách nói lịch sự: tế nhị trong khi cảm ơn và xin lỗi; chào hỏi theo quan hệ xã hội và theo sắc thái tình cảm

Nghệ thuật ngôn từ: học tiếp

Có tính biểu tượng cao:

Xu hướng ước lệ: thích dùng các con số biểu trưng, nói một cách ước lệ=> ba chìm bảy nổi; năm bè bảy mối

Xu hướng trọng sự cân bằng hài hòa trong ngôn từ=> cấu trúc song tiết chủ đạo, thích câu đối, thơ ca

Giàu chất biểu cảm:

Từ ngữ: từ những từ gốc mang sắc thái trung hòa thường có nhiều biến thể với sắc thái nghĩa biểu cảm=> từ xanh có xanh rì, xanh rờn, xanh ngắt, xanh lè; các từ láy mang sắc thái biểu cảm mạnh rất phổ biến

Ngữ pháp: dùng nhiều hư từ biểu cảm và cấu trúc "iếc hóa" làm tăng phương tiện biểu cảm

Trong lịch sử văn chương truyền thống không có những tác phẩm anh hùng đề cao chiến tranh mà chỉ có tác phẩm nói đến nỗi buồn của nó


Tính động và linh hoạt:

Ngữ pháp đơn lập, ngữ nghĩa; dùng từ hư để biểu hiện các ý nghĩa và quan hệ ngữ pháp

Thích dùng cấu trúc động từ

=> Trong giao tiếp, người Việt có thiên hướng nói đến những nội dung tĩnh (tâm lí, tình cảm,...) bằng hình thức động (cấu trúc động từ, ngữ pháp ngữ nghĩa linh hoạt)

II. Nghệ thuật thanh sắc và hình khối:

Tính biểu trưng của nghệ thuật thanh sắc và hình khối:

Mục đích: thông qua những biểu tượng ước lệ để diễn đạt nội dung chứ không phải hình thức, cái cốt lõi chứ không phải các chi tiết phụ trợ

Nguyên lí đối xứng hài hòa:

Âm nhạc cổ truyền: chỉ có nhịp chẵn (2-4 phách); câu nhạc chia làm ô chẵn (2,4,8,16,32)

Múa tuân theo luật âm dương: đội hình phổ biến là tròn và vuông; tương quan cặp đôi giữa các bộ phận cơ thể, các phần của động tác

Thủ pháp ước lệ: dùng một bộ phận để hình dung ra sự thật ngoài đời

Thủ pháp mô hình hóa: phân loại nhân vật (đào, kép, lão, mụ, vua, quan) qua các chi tiết trên khuôn mặt nhân vật

Tính biểu trưng của nghệ thuật hình khối:

Được sử dụng rất đắc lực vào mục đích nhấn mạnh để làm nổi bật trọng tâm của đề tài với sự đầy đủ, trọn vẹn của nó, bất chấp yêu cầu về tính hợp lí của hiện thực

Thủ pháp hai góc nhìn

Thủ pháp nhìn xuyên vật thể

Thủ pháp phóng to - thu nhỏ cho phép làm nổi bật nhân vật trung tâm hoặc phân biệt vị trí xã hội

Thủ pháp lược bỏ: là việc thu nhỏ được đẩy đến cực đoan

Thủ pháp mô hình hóa: tạo nên một nền nghệ thuật trang trí với nhiều mô hình mang tính triết lí sâu sắc

Thủ pháp liên tưởng bằng ngôn từ

Liên tưởng theo dạng chữ Hán

Liên tưởng đồng âm

Liên tưởng gần âm

Mô hình ý nghĩa phồn thực: dấu hiệu điển hình nhất là số nhiều

=> Tính biểu trưng là nguyên lí cơ bản trong nghệ thuật VN:

Tính biểu trưng quán xuyến trong mọi loại hình nghệ thuật ở VN

Ban đầu có cả khuynh hướng tả thực và biểu trưng nhưng về sau khuynh hướng biểu trưng đóng vai trò chủ đạo

Tính biểu cảm của nghệ thuật thanh sắc và hình khối

Nghệ thuật thanh sắc:

Thiên về diễn tả tình cảm nội tâm mang đậm chất trữ tình với tốc độ chậm, âm sắc trầm và rất chú trọng luyến láy

Dàn nhạc VN ưa gọn nhẹ, dùng ít nhạc công dễ đi vào lòng người

Trong múa, người Việt thích những đường nét tròn trĩnh, uốn lượn mềm mại, không gãy góc; phổ biến sự kín đáo, tế nhị trong cách ăn mặc, trong động tác=> múa tay là chính, mô phỏng những động tác nhổ mạ, cấy lúa, hái dâu

Trong chèo, tính biểu cảm thể hiện ở vai trò người phụ nữ luôn được nhấn mạnh

Nghệ thuật hình khối:

Người Việt không ưa tạo ra những tranh tượng về đề tài chiến tranh

Rất nhiều tranh tượng thể hiện tình cảm

Tạo ra những hình tượng mang tính thiện từ những hình mẫu ác

Khi cải lương xuất hiện, yếu tố hát tuy được giảm bớt về lượng để nhường chỗ cho nói thường, nhưng tính biểu cảm truyền thống lại được nâng cao về chất nhờ sự xuất hiện của làn điệu vọng cổ

3. Tính tổng hợp của nghệ thuật thanh sắc và hình khối:

Nghệ thuật thanh sắc:

Không có sự phân biệt các loại hình ca múa nhạc

Không có sự phân biệt các thể loại

Có những nhạc cụ mang cả ba đặc trưng: tổng hợp, linh hoạt và biểu cảm (đàn bầu)

Nghệ thuật hình khối:

Có sự tổng hợp của cả tính biểu trưng và biểu cảm

Có sự tổng hợp giữa biểu trưng và tả thực

4. Tính linh hoạt ở nghệ thuật thanh sắc:

Sân khấu truyền thống:

Không đòi hỏi nhạc công chơi giống hệt nhau

Không đòi hỏi diễn viên tuân thủ một cách chặt chẽ bài bản của tích diễn

Có sự giao lưu rất mật thiết với người xem: lời thoại đặc biệt (tiếng đế); vai trò của người cầm chầu; chú Tễu trong nghệ thuật múa rối nước

DIỄN TRÌNH LỊCH SỬ VĂN HÓA VIỆT NAM

VĂN HÓA VIỆT NAM THỜI TIỀN SỬ

Văn hóa Núi Đọ (sơ kỳ thời đại đá cũ)

Là tên di chỉ khảo cổ học ở Núi Đọ, huyện Thiệu Hóa - Thanh Hóa=> Nền văn hóa mở đầu cho giai đoạn Tiền sử (cách ngày nay 40-50 vạn năm)

Chủ nhân của nền VH này là người vượn Homo-Erectus=> công cụ lao động: mảnh ghè với sự chế tác còn vụng về (công cụ chặt thô sơ)=> tiêu biểu nhất là rìu tay được chế tác cẩn thận nhất

Núi Đọ vừa là nơi cư trú vừa là nơi chế tác công cụ của con người thời đại đá cũ

Văn hóa Sơn Vi:

Có niên đại cách ngày nay từ 30.000 đến 11.000 năm=> chủ nhân là người khôn/hiện đại (homo sapiens)

Địa bàn cư trú rộng cả vùng núi, trung du từ Bắc bộ tới Bắc Trung bộ và các hang động núi đá vôi=> Cư dân sống thành các bộ lạc săn bắt, hái lượm; dùng đá cuội để chế tác công cụ lao động với kĩ thuật còn khá thô sơ song đã có những bước tiến lớn trong kĩ thuật chế tác=> tiêu biểu là những hòn đá cuội được ghè đẽo ở hai cạnh=> đa số là công cụ chặt, nạo hay cắt

Cư dân đã có tư duy phân loại: thể hiện trong việc lựa chọn nguyên liệu đá và trong sự đa dạng của các loại hình công cụ

Đã biết dùng lửa; thức ăn là các loại nhuyễn thể, quả, hạt, cây và những động vật vừa nhỏ

chôn người chết ngay trong nơi cư trú cùng với những công cụ lao động=> niềm tin của người nguyên thủy về một thế giới mà người chết vẫn tiếp tục "sống"

Văn hóa Hòa Bình:

Phân bố trong các hang động núi đá vôi và mái đá thuộc các tính Bắc bộ và Bắc Trung bộ=> thích cư trú trong các khu vực gần cửa hang, thoáng đãng, có ánh sáng

Môi trường hoạt động rất rộng: hang-thung-thềm sông-suối=> nền văn hóa thung lũng

Người Hòa Bình sống chủ yếu bằng săn bắt và hái lượm=> lượm trong rừng đủ thứ có thể ăn và sử dụng được do đặc điểm của hệ sinh thái phồn tạp vùng rừng nhiệt đới

Đã có một nền nông nghiệp sơ khai xuất hiện trong lòng văn hóa Hòa Bình nhưng vai trò của nó còn rất nhỏ bé so với các hoạt động truyền thống hái lượm và săn bắt

Kĩ thuật chế tác chủ yếu là ghè đẽo trực tiếp và gia công tu chỉnh rìa cẩn thận

Kĩ thuật mài đá khá phổ biến

Loại hình công cụ: công cụ chặt thô, công cụ chặt hình núm cuội, công cụ chặt hình hạnh nhân, hình đĩa, rìu ngắn, rìu dài...

Cư dân Hòa Bình đã biết làm đồ gốm=> đánh dấu bước chuyển từ kinh tế khai thác sang kinh tế sản xuất

Họ chôn người chết trong nơi cư trú: trong các hang, cạnh các hốc đá hoặc bên bếp lửa=> người chết thường được chôn theo tư thế bó gối cùng các công cụ lao động

Có những dấu vết nghệ thuật qua những hiện vật bằng xương có vết khắc hình cá, hình thú và hình vẽ

Cư dân đã có sự phát triển trong tư duy qua những hình vẽ biểu hiện nhịp điệu, các kí hiệu biểu thị mặt trời

Các tín ngưỡng nguyên thủy xuất hiện (tiêu biểu là tín ngưỡng thờ Mặt trời)

B. VĂN HÓA VIỆT NAM THỜI SƠ SỬ

Văn hóa Đông Sơn (miền Bắc): giai đoạn cốt lõi của người Việt cổ

Văn hóa Đông Sơn được hình thành trực tiếp từ 3 nền văn hóa ở lưu vực sông Hồng, sông Mã, sông Cả

Con người vẫn sử dụng đá, gỗ, tre, nứa, xương để chế tạo công cụ và vũ khí

Đồ gốm đạt độ nung cao hơn, dày và cứng hơn, đa số có màu xanh mốc

Sự xuất hiện của đồng có tác động lớn đối với kinh tế, xã hội và văn hóa của các cộng đồng người

Đặc điểm văn hóa địa phương còn khá rõ ràng; ở lưu vực sông Hồng, Mã và Cả đã có sự giao lưu văn hóa mạnh mẽ thông qua việc tiếp xúc kinh tế-xã hội hoặc quan hệ hôn nhân, ngoại giao, xung đột và hòa giải

Cư dân tiền Đông Sơn là cư dân trồng lúa nước, biết chăn nuôi một số loại gia súc như trâu, bò; voi được dùng để chuyên chở

Làng mạc giai đoạn này có diện tích rộng và tầng văn hóa dày

Người chết được chôn bên cạnh nơi cư trú hay trong khu cư trú

Cư dân có đời sống tinh thần khá phong phú: thể hiện trong tư duy và sáng tạo nghệ thuật

làm chủ được nghệ thuật nhịp điệu trong ca múa, biểu hiện tính đối xứng chặt chẽ của các mô típ hoa văn trong trang trí

Biết tới nhiều dạng đối xứng khác nhau

Các nền văn hóa bộ lạc mất dần tính địa phương tiến tới chỗ hòa chung vào một văn hóa thống nhất=> văn hóa Đông Sơn: các bộ lạc liên kết lại trong một quốc gia là nước Văn Lang

Nông nghiệp:

Nghề chính: trồng lúa nước, canh tác ở nhiều loại đất khác nhau; hình thức canh tác phổ biến là loại ruộng chờ mưa

Có kĩ thuật trị thủy: làm đê

Công cụ lao động khá đa dạng: có sự xuất hiện của lưỡi cày làm bằng kim loại

Một năm có thể trồng được hai vụ lúa

Ngoài trồng trọt còn có chăn nuôi (đặc biệt là trâu, bò)

Kỹ thuật đúc đồng đạt tới trình độ điêu luyện, là đỉnh cao của thời kì này: trống đồng, thạp đồng

Cuối giai đoạn văn hóa Đông Sơn kĩ thuật rèn sắt cũng khá phát triển

Người Đông Sơn có nhiều nghề thủ công: chế tạo thủy tinh, làm mộc, sơn, dệt vải, đan lát, làm gốm, chế tác đá

Làng xóm được phân bố trên những nơi đất cao, gần các con sông; làng thời kì này tương đương với xóm hay làng nhỏ ngày nay, ngoài ra còn thấy hiện tượng một số làng xóm nhỏ quy tụ thành một vài khu vực cư trú đông đúc

Người Đông Sơn cũng tạo ra được các vũ khí, các vành đai phòng thủ để chống xâm lược

Người Đông Sơn cũng có những phong tục và y phục khá phong phú:

Có ít nhất bốn kiểu để tóc

Lối ăn mặc giản dị, gọn gàng tới tối đa: ở trần, đóng khố, đi chân đất

Ở nữ phổ biến mặc váy thay khố

Có trang phục lễ hội

Ưa thích đồ trang sức (bằng đồng, thủy tinh), đeo ở tay, cổ tay và cả chân

Cơ cấu bữa ăn: cơm (bắt đầu ăn gạo tẻ)-rau-cá

Nhà ở: tạo ra bằng các vật liệu dễ bị phá hủy theo thời gian; hình dáng có các loại nhà mái tròn, mái cong và nhà sàn

Đi lại chủ yếu bằng thuyền bè=> đường vận chuyển chủ yếu là sông và ven biển

Là thời kì hình thành những huyền thoại và thần thoại:

Nghi lễ và tín ngưỡng gắn chặt với nghề nông trồng lúa nước

Tư duy: có tư duy lưỡng phân, lưỡng hợp về thế giới

Lễ hội thường tổ chức vào mùa xuân, có hội mùa, cầu nước, khánh thành trống đồng

Có tục nhuộm răng ăn trầu, xăm mình, ăn đất nung non, uống nước bằng mũi, ma chay, cưới xin

Âm nhạc là ngành nghệ thuật khá quan trọng và phát triển trong đời sống tinh thần của cư dân: trống đồng, sênh, phách, khèn

Ngoài giao lưu với Sa Huỳnh và Đồng Nai ở phía Nam, ở phía Bắc có mối quan hệ và tiếp xúc với các cư dân nam Trung Hoa, phía Đông với hải đảo, phía Tây với lục địa

=> Văn hóa Đông Sơn là nền tảng cho sự ra đời của nhà nước Văn Lang

Văn hóa Sa Huỳnh:

Nền văn hóa này có quan hệ gốc gác với các nền văn hóa hậu kỳ đá mới và sơ kỳ thời đại đồng thau ven biển

Văn hóa Sa Huỳnh tồn tại từ sơ kỳ thời đại đồng thau cho đến sơ kỳ thời đại sắt sớm

Chủ nhân của văn hóa Sa Huỳnh có quan hệ cội nguồn với các văn hóa hậu kì đá mới, sơ kì đồng thau ven biển

cư dân làm nông nghiệp lúa nước, biết khai thác các nguồn lợi từ biển

Mai táng bằng chum gốm là một đặc trưng văn hóa tiêu biểu của văn hóa Sa Huỳnh

Ở giai đoạn sớm và giữa, đồng thau được người Sa Huỳnh chế tác công cụ và vũ khí

Kỹ thuật chế tác đồ sắt (phương pháp rèn) đạt tới trình độ cao; đồ sắt chiếm lĩnh về cả số lượng và chất lượng

Nghề thủ công rất phát triển: se sợi, dệt vải, chế tạo gốm, làm đồ trang sức (nhất là nghề làm gốm)

Người Sa Huỳnh rất thích dùng đồ trang sức, chất liệu ưa thích là mã não

Người Sa Huỳnh biết nấu cát làm thủy tinh và dùng thủy tinh để chế tác đồ trang sức (hạt cườm, hạt chuỗi, vòng tay, khuyên tai)

Nền kinh tế của cư dân Sa Huỳnh là nền kinh tế đa thành phần

Người Sa Huỳnh sống thành các khu vực có mật độ dân cư đông đúc:

Mở rộng quan hệ, giao lưu, trao đổi với các cư dân khác trong khu vực (nhất là buôn bán bằng đường biển)=> cơ sở hình thành các thị cảng sơ khai

Sự phát triển của nghề luyện sắt, sự quần cư đông đúc của dân cư đã chứng tỏ sự hình thành của một nhà nước sơ khai

=> Nhà nước Champa được hình thành và phát triển trên nền tảng của văn hóa Sa Huỳnh cùng với sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố ngoại sinh

Văn hóa Đồng Nai

Cư dân Đồng Nai đã có mặt ở vùng Đông Nam Bộ cách ngày nay 4000-5000 năm:

Văn hóa Đồng Nai thuộc thời đại kim khí (đồng thau và sắt sớm)

Cư dân sinh sống ở nhiều tiểu vùng sinh thái khác nhau: chủ yếu là vùng cửa sông, giáp biển (tập trung tại các khu vực cao nguyên, vùng đồi, đồng bằng sông )=> có 5 tiểu vùng văn hóa Tiền-sơ sử Đông Nam Bộ

Nhiều di vật được khai quật với nhiều chất liệu như gốm, đá, gỗ, đồng, sắt, xương; đồ đá là di vật phổ biến và có số lượng lớn nhất=> đặc điểm lớn nhất của văn hóa Đồng Nai

Kĩ thuật chế tác đá mang nhiều tính chất thực dụng, tiết kiệm tối đa công sức và nguyên liệu=> chiếm số lượng nhiều nhất là công cụ sản xuất, vũ khí

Loại hình trang sức thường gặp là các vòng, vật đeo

Chế phẩm đặc thù của văn hóa Đồng Nai là đàn đá

Nghề đúc đồng và luyện kim đồng phổ biến; ở giai đoạn muộn có loại hình qua

Giai đoạn muộn đặc trưng bởi hình thức mai táng bằng mộ chum với những loại hình hiện vật gốm, đá, điển hình

Đồ gốm và nghề gốm đã xuất hiện trong lòng của văn hóa Đồng Nai với kĩ thuật dùng bàn xoay và có độ nung cao: nồi vò bát, bát có chân Cà ràng, dọi xe sợi, bi, bàn xoa gốm

Cư dân Đồng Nai còn nổi tiếng bởi sưu tập công cụ gỗ phong phú về loại hình và nhiều về số lượng

Cư dân Đồng Nai cũng có những bộ sưu tập công cụ - đồ dùng chế tác từ xương sừng rất độc đáo

Kinh tế: trồng lúa cạn không dùng sức kéo, trồng rau đậu, cây có quả-củ cho bột bằng phương pháp phát-đốt đặc thù của nông nghiệp nương rẫy, chăn nuôi, săn bắn, hái lượm, đánh bắt cá tôm và nhuyễn thể của sông biển

Có sự chuyên môn hóa - phân công lao động - phân vùng kinh tế trong trình độ phát triển kinh tế - kĩ thuật của cư dân Đồng Nai

Tín ngưỡng: sưu tập thẻ đeo bằng đá cuội, tượng lợn, rùa bằng sa thạch, tượng chó săn mồi bằng đồng

Ở giai đoạn cuối, kim loại chiếm vị trí quan trọng trong sản xuất và đời sống của cư dân Đồng Nai

=> Tạo điều kiện hình thành cơ cấu xã hội có giai cấp sơ khai và Nhà nước khởi thủy vào những thế kỉ đầu công nguyên

C. VĂN HÓA VIỆT NAM THIÊN NIÊN KỈ ĐẦU CÔNG NGUYÊN

Văn hóa Châu thổ Bắc bộ thời Bắc thuộc:

Bối cảnh lịch sử văn hóa:

Năm 179 TCN, thành Cổ Loa thất thủ=> đất nước ta rơi vào đêm trường Bắc thuộc

Các triều đại phong kiến Trung Quốc tiến hành đồng hóa nhân dân ta về cả dân tộc và văn hóa

Người Việt luôn không ngừng đấu tranh để bảo vệ bản sắc văn hóa, chống chính sách đồng hóa và chống xâm lược

3 đặc trưng cơ bản trong bối cảnh văn hóa-lịch sử giai đoạn này:

Tiếp xúc cưỡng bức và giao thoa văn hóa Việt-Hán

Giao lưu văn hóa tự nhiên Việt-Ấn

Giữ gìn, bảo tồn và phát triển bản sắc dân tộc, bản sắc văn hóa bằng cách bảo tồn giá trị truyền thống và thâu hóa yếu tố văn hóa mới

Tiếp xúc cưỡng bức và giao thoa văn hóa Việt-Hán

Về chính trị-xã hội: áp đặt mô hình tổ chức chính trị và sinh hoạt xã hội của Trung Hoa sang đất Việt

Về tư tưởng: truyền bá các học thuyết, tôn giáo vào nước ta

Các lĩnh vực khác: áp đặt cách ăn, mặc, ở, đi lại, phương thức sản xuất, quan hệ xã hội, tiếng nói như người Hán=> Có những cuộc di cư ồ ạt từ phương Bắc xuống sống lẫn với người Việt để đồng hóa người Việt

=> Người Việt luôn tìm mọi cách chống Hán hóa, giữ gìn bản sắc dân tộc khiến nền văn hóa bản địa từ thời Đồng Sơn tiếp tục được lưu giữ trong văn hóa dân gian các làng Việt cổ, các tộc người khác ở Đông Dương và Đông Nam Á

=> Cùng với các yếu tố ngoại sinh từ Trung Hoa, Ấn Độ truyền vào đã tạo nên sắc thái văn hóa văn minh mới cho nước ta

Giao lưu văn hóa tự nhiên Việt-Ấn:

Phật giáo từ Ấn Độ được du nhập vào nước ta vừa trực tiếp vừa gián tiếp: từ Ấn Độ truyền bá vào đất Việt và Trung Quốc, rồi từ Trung Quốc truyền dội sang đất nước ta

Phật giáo được chia thành nhiều tông phái khác nhau với hai dòng chính: Tiểu thừa (Nam tông) và Đại thừa (Bắc tông)

Phật giáo khi vào Việt Nam đã được bản địa hóa để phù hợp với phong tục tập quán của cư dân

Luy Lâu trở thành trung tâm Phật giáo ở miền Bắc nước Việt và là căn cứ, bàn đạp để Phật giáo đi vào Trung Quốc

=> Đạo Phật tại Giao Châu chắc chắn do từ Ấn Độ truyền sang trực tiếp, mãi về sau mới lại do từ Trung Hoa tiếp tục truyền xuống

Giao Châu cũng có giao lưu với Ấn Độ bằng con đường buôn bán; người Việt đã tiếp thu nhiều thành tựu văn hóa vật chất, ngôn ngữ và tinh thần Ấn Độ trong đó có đạo Phật

Giữ gìn, bảo tồn và phát triển bản sắc văn hóa dân tộc:

Người Việt đã tiếp thu, tiêu hóa và làm chủ những ảnh hưởng từ bên ngoài:

Văn hóa vật chất: tiếp thu kỹ thuật làm giấy của Trung Hoa và tạo ra nhiều loại giấy chất lượng tốt; tiếp thu kỹ thuật gốm sứ và tạo ra được nhiều sản phẩm mới (sanh hai quai, ống nhổ)

Tiếng nói: bảo tồn Tiếng Việt; hấp thụ thêm yếu tố từ ngôn ngữ Hán=> từ Hán-Việt; giữ lại ảnh hưởng của ngôn ngữ Mã Lai-Tạng Miến, nhất là Ấn Độ

Vai trò của người phụ nữ: trong gia đình người Việt, phụ nữ được đề cao; bảo tồn tín ngưỡng thờ Mẫu

II. Văn hóa Champa:

Người Chăm là tộc người thuộc chủng Nam Á

Vương quốc Chawmpa là vương quốc (mandala) của các tiểu quốc tồn tại gần 15 thế kỉ (từ thế kỉ II đến thế kỉ XV)

Phạm vi của văn hóa Champa kéo dài từ Quảng Bình tới Phan Thiết, trùng với không gian củ văn hóa Sa Huỳnh=> Văn hóa Chăm nảy sinh từ văn hóa Sa Huỳnh

Đặc trưng của văn hóa Champa:

Chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của văn hóa Ấn Độ

Người Chăm vẫn bảo vệ các tín ngưỡng truyền thống của mình (thờ cúng tổ tiên, thờ Mẹ)

Ở Champa không có sự kì thị tôn giáo, bao trùm lên là sự hỗn dung tất cả các tôn giáo và giáo phái của Ấn Độ

Tính chất Siva giáo là đặc trưng chủ đạo trong đời sống tôn giáo của vua chúa Champa

Họ đã sáng tạo ra chữ viết (thế kỉ IV-V)

Âm nhạc và múa có vai trò rất quan trọng trong đời sống tinh thần

Người Chăm cũng đã biết dùng lịch

Người Chăm đã xây dựng hệ thống đền tháp rất phong phú

Nền điêu khắc của người Chăm vô cùng rực rỡ

Nền kinh tế của người Chăm là nền kinh tế đa thành phần

III. Văn hóa Óc Eo:

Văn hóa Óc eo gắn với sự ra đời của vương quốc Phù Nam

Là một vương quốc rất phát triển về mặt thương mại (đường biển)

Là địa điểm trung chuyển rất thuận lợi về mặt chiến lược

Xã hội Óc Eo là một xã hội phát triển nhiều ngành nghề thủ công

Nông nghiệp và thương nghiệp khá phát triển:

Sản phẩm thủ công khá đa dạng, có sự chuyển hóa, có cả những sản phẩm ngoại nhập

Kĩ thuật xây dựng đạt trình độ cao

Nghệ thuật tạc tượng điêu luyện

Văn hóa Óc Eo mang đậm yếu tố "ngoại sinh"=> lụi tàn vào thế kỉ VII cùng với sự biến mất của vương quốc Phù Nam

D. KẾT LUẬN:

Thời Tiền sử và Sơ sử là giai đoạn dài, có tính chất quyết định, là giai đoạn hình thành, phát triển và định vị của văn hóa Việt Nam

Thiên niên kỉ đầu công nguyên văn hóa Việt NAm có sự tiếp xúc cưỡng bức và giao thoa văn hóa Việt-Hán ở Bắc bộ; giao lưu tự nhiên Việt-Ấn trong văn hóa Chăm và văn hóa Óc Eo, khiến cho mỗi vùng có những gương mặt riêng và đặc điểm riêng

Diễn trình lịch sử của các nền văn hóa này vẫn mang những nét chung của cơ tầng văn hóa Đông Nam Á và sẽ phát triển ở giai đoạn sau

VĂN HÓA VIỆT NAM THỜI TỰ CHỦ

Bối cảnh lịch sử văn hóa

Các vương triều liên tục thay thế nhau xây dựng một quốc gia tự chủ

Đất nước dần được mở rộng về phương Nam

Đây cũng là thời kì có khá nhiều biến đổi từ ngoại cảnh (các cuộc xâm lược của phong kiến phương Bắc và các cuộc đấu tranh bảo vệ đất nước của cư dân Việt)

Ba lần phục hưng văn hóa trong thời kì độc lập tự chủ:

Lần 1: thời Lý-Trần

Lần 2: thế kỉ XV (thời Lê Thái Tổ đến thành Lê Thánh Tông)

Lần 3: thế kỉ XVIII

Mỗi lần phục hưng văn hóa, Văn hóa Đại Việt lại có những sự thay đổi cả về lượng và chất

Văn hóa thời Lý-Trần:

Văn hóa vật chất:

Có thành Thăng Long

Kiến trúc-mỹ thuật:

Thời Lý: kiến trúc chùa và tượng Phật phát triển mạnh

Nhiều chùa có quy mô lớn và có sự hài hòa với cảnh trí thiên nhiên xung quanh

Phong cách điêu khắc trên đá, trên gốm khá đặc sắc, thể hiện được tay nghề khá thuần thục

Kiến trúc mỹ thuật thời Lý mang nhiều nét tương đồng với kiến trúc mỹ thuật Chăm và một số nước ĐNA

Nghề thủ công:

Nghề dệt: với nhiều chất liệu như vải, lụa gấm với nhiều màu sắc và hoa văn độc đáo

Nghề làm gốm: phát triển và đạt trình cao (gạch khổ lớn có trang trí và khắc niên hiệu thời Lý; ngói (ngói sứ trắng và ngói tráng men)

Thời Trần: xuất hiện những làng nghề chuyên sản xuất một mặt hàng nhất định=> kinh thành Thăng Long được mở rộng và chia làm 61 phường

Hệ tư tưởng:

Là thời kì dung hòa Tam giáo

Tinh thần văn hóa thời Lý-Trần: khai phóng đa nguyên

Phật giáo có bước phát triển lớn từ thế kỉ X

Phật giáo có ảnh hưởng đến tư tưởng, tâm lý, phong tục và nếp sống của nhân dân

Phật giáo có ảnh hưởng lớn đến kiến trúc, điêu khắc, thơ văn và nghệ thuật

Chế độ giáo dục thi cử theo tinh thần Nho giáo bắt đầu được áp dụng từ thời Lý: giai đoạn thời Lý, Nho giáo chưa phát triển mạnh

Thời Trần vương triều được chính quy hóa, tạo ra việc quy củ cho việc học hành thi cử:

Năm 1247, nhà Trần đặt ra danh hiệu Tam khôi dành cho 3 người đỗ xuất sắc trong kì thi Đình

Giai đoạn sau Nho giáo phát triển mạnh, lấn át Phật giáo=> Nho giáo có ảnh hưởng sâu sắc trong giáo dục, đạo đức, luân lý

Hai khuynh hướng cơ bản trong sự phát triển tư tưởng Việt Nam từ thế kỉ X-XIV:

Tư tưởng chính trị gắn liền với thực tiễn dựng nước và giữ nước

Chủ nghĩa duy tâm có tính chất tín ngưỡng của Phật giáo

Nền văn hóa bác học hình thành và phát triển:

Nền văn học chữ viết được hình thành với đội ngũ sáng tác hùng hậu:

Thế kỷ X-XII (50 tác giả): đa số là nhà sư; chủ yếu là thơ liên quan đến triết học và giáo lý Thiền Tông

Thế kỷ XIII-XIV (60 tác giả): đa số là Nho sĩ; học tập phong cách sáng tác của Trung Hoa

Hình thành dòng văn học chữ Nôm

Xuất hiện dòng văn học chữ viết (cả Hán và Nôm)

Các ngành nghệ thuật như ca, múa, nhạc, chèo, tuồng cũng ra đời, phát triển và mang bản sắc dân tộc

Nghệ thuật điêu khắc thời Trần mang tính chất phóng khoáng, khỏe và thực hơn

3. Tiểu kết phần I:

Thời Lý-Trần là lần thứ nhất nền văn hóa Đại Việt thời tự chủ

Là giai đoạn có nhiều thành tựu văn hóa đặc sắc trên nhiều phương diện

Thể hiện được sự giao thoa văn hóa với Trung Hoa và khu vực, khẳng định một bản sắc văn hóa rất riêng của dân tộc

II. Văn hóa Việt Nam thời Minh thuộc và Hậu Lê:

Bối cảnh lịch sử:

Nhà Hồ thay thế nhà Trần và tiến hành một số cải cách nhất định

Nhà Minh thực hiện chế độ chiếm đóng quân sự trên đất nước ta nhằm thủ tiêu nền văn hóa Đại Việt bằng mọi cách

Cuộc tụ nghĩa Lam Sơn đã dẫn đến chiến thắng quân Minh, đưa đất nước ta vào thời kì phục hưng lần thứ 2

Đặc trưng văn hóa:

Kinh tế:

Nhà Lê quan tâm đến đê điều và các công trình thủy lợi

Nhà Lê chủ trương điền quân điền và lộc điền

Các ngành nghề, làng nghề phát triển; nhiều trung tâm thủ công nghiệp xuất hiện

Ngoại thương không phát triển bằng thời Lý-Trần

Giáo dục:

Nhà Lê chủ trương mở mang giáo dục

Chế độ thi cử khá quy củ

Học tập theo tinh thần của Nho giáo

=> Nho giáo chiếm địa vị ưu thế trong đời sống tư tưởng thời Lê

Văn hóa tổ chức đời sống xã hội:

Ban hành Luật Hồng Đức=> là bước phát triển quan trọng của lịch sử pháp quyền Việt Nam

Văn hóa ngôn từ:

Dòng van học chữ Nôm không ngừng phát triển

Nhiều tác giả đã thể hiện được lòng tự hào dân tộc, khí phách anh hùng, chủ nghĩa yêu nước

III. ĐẶC TRƯNG VĂN HÓA TỪ THẾ KỈ XVI-1858

Bối cảnh:

Sự phân liệt về chính trị một cách gay gắt

Xung đột nhà Lê và nhà Mạc; nhà Lê-Trịnh ở Đàng Ngoài và các chúa Nguyễn ở Đàng Trong

Sự thống nhất đất nước đã tạo cho văn hóa Việt Nam diện mạo khá đa dạng

Hệ tư tưởng:

Thế kỉ XVII-XVIII, đời sống tư tưởng ở VN trở nên phức tạp: Kito giáo xuất hiện ở nước ta vào thế kỉ XVI

Sự xuất hiện của chữ Quốc ngữ:

Là công lao của các giáo sĩ phương Tây và nhiều trí thức Việt Nam

Sự xuất hiện của chữ Quốc ngữ đưa sự phát triển văn hóa lên một bước mới

Đàng Trong và sự phát triển của văn hóa Việt:

Đàng Trong là vùng đất mới của người Việt=> phải xử lý 3 mối quan hệ:

Giữa vốn văn hóa tiềm ẩn trong tiềm thức họ mang theo từ vùng đất cội nguồn và điều kiện tự nhiên, XH của vùng đất mới

Giữa văn hóa của tộc người Việt và văn hóa của các dân tộc khác cùng địa bàn

Giữa văn hóa của lưu dân khai phá và vốn văn hóa của lớp cư dân xa xưa, nhất là ở Nam Bộ

Sự phát triển của các ngành văn hóa nghệ thuật:

Văn học:

Gồm văn học thành văn:

Dùng chữ Nôm để sáng tác

Thể lục bát và song thất lục bát cũng phát triển

Văn học dân gian:

Truyện cười, truyện Trạng, tục ngữ

Hát tuồng, hát chèo, hát ả đào... phát triển mạnh mẽ

Kiến trúc và điêu khắc:

Kiến trúc:

Đình, đền, chùa phát triển (nhất là kiến trúc đình làng-thế kỉ XVII-XVIII)

Kiến trúc kinh thành (kinh thành Huế-thế kỉ XIX)

Điêu khắc:

Điêu khắc đình làng phản ánh sinh động những nét văn hóa đời thường (XVI-XVII)

Nghệ thuật tạc tượng đạt tới trình độ điêu luyện vào thế kỉ XVIII

Điêu khắc người và thú ở các lăng mộ, tượng các linh vật (rồng, tượng chùa và chạm nổi quanh cửu đỉnh-XIX)

IV. KẾT LUẬN:

Diền trình lịch sử văn hóa VN từ 938 đến 1858 đã phát triển với nhiều nét đặc biệt

Sự phát triển của các thành tố văn hóa cả về lượng và chất làm cho văn hóa Việt Nam đạt đến trình độ rực rỡ nhất

Khẳng định bản sắc và bản lĩnh của một dân tộc đã trưởng thành, một quốc gia văn hiến, tạo nên sức mạnh để dân tộc ta hội nhập và vượt qua những sóng gió, bão tố lịch sử ở các giai đoạn sau

VĂN HÓA VIỆT NAM TỪ NĂM 1858 ĐẾN NAY

VĂN HÓA VIỆT NAM TỪ NĂM 1858 ĐẾN NĂM 1945

Bối cảnh văn hóa:

Người Pháp xâm lược và dân tộc Việt Nam chống xâm lược:

Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược VN

Triều đình Huế nhân nhượng kí các hiệp định công nhận quyền đô hộ của Pháp ở cả ba kỳ

Thực dân Pháp tiến hành khai thác thuộc địa tại VN

=> Nhân dân VN liên tục tiếp lên chống Pháp

Chính sách văn hóa của người Pháp:

Lĩnh vực văn hóa, tổ chức đời sống xã hội: thực hiện chính sách chia để trị; duy trì tổ chức làng xã=> Văn hóa dân gian vẫn được bảo tồn

Giáo dục: ban đầu duy trì Nho học=> mở các cơ sở đào tạo công chức cho chính quyền thuộc địa

Sử dụng chữ Quốc ngữ làm công cụ thuận lợi cho việc chính trị và đồng hóa

2. Đặc trưng văn hóa giai đoạn từ năm 1858 đến năm 1945:

Tiếp xúc cưỡng bức và giao thoa văn hóa Việt-Pháp + Giao lưu văn hóa tự nhiên VN với thế giới Đông Tây=> Thay đổi nhận thức của tầng lớp sĩ phu, đưa đến một sự chuyển đổi cơ bản trong tính chất nền văn hóa VN giai đoạn tiếp sau

Hệ tư tưởng:

Là giai đoạn tồn tại nhiều hệ tư tưởng có từ các giai đoạn trước đồng thời xuất hiện nhiều hệ tư tưởng mới

Hệ tư tưởng thần thoại với hệ thống thần linh đa dạng

Nho giáo không giúp các nhà Nho tìm được con đường cứu nước

Hệ tư tưởng dân chủ tư sản; các thuyết về nhân đạo, dân quyền

=> các nhà Nho đã chuyển sang hệ tư tưởng dân chủ

=> Phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục thể hiện rõ nét văn minh tân học sách

Xuất hiện tầng lớp tiểu tư sản thành thị sau 2 cuộc khai thác thuộc địa của Pháp

Phong trào công nhân + phong trào yêu nước=> Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời

=> Truyền thống bị đô hộ=> Cách mạng

Văn hóa vật chất:

Đô thị:

Chuyển đổi chức năng

Nhiều đô thị mới xuất hiện

Kiến trúc đô thị phát triển

Giao thông:

Đường bộ được người Pháp đầu tư phát triển, tu bổ, khai thông đường thủy

Phát triển đường sắt

=> Phục vụ cho việc khai thác thuộc địa của Pháp

=> Diện mạo văn hóa vật chất giai đoạn này có nhiều khác biệt so với các giai đoạn trước

Báo chí ra đời và phát triển: làm vũ khí tuyên truyền cho chính quyền thuộc địa

Xuất hiện đầu tiên ở Sài Gòn

Ban đầu báo chí xuất hiện nhiều bằng tiếng Pháp, sau có thêm nhiều báo bằng chữ Quốc ngữ ở cả 3 miền Bắc, Trung, Nam

Sự phát triển của báo chí bằng chữ Quốc ngữ góp phần vào sự phát triển của văn học chữ Quốc ngữ

Bước phát triển của văn học:

Các nhà Nho sử dụng văn học làm vũ khí chống kẻ thù xâm lược, cổ vũ cho sự tiến bộ của xã hội

Chữ Quốc ngữ được sử dụng để sáng tác văn học (phiên âm sách chữ Nôm, chữ Hán, chữ Pháp, ký sự, tiểu thuyết, truyện ngắn, văn xuôi, thơ)

Văn học Việt Nam chuyển mình về cả hình thức và nội dung=> xuất hiện các tác gủa cách mạng=> chuyển từ phạm trù văn học trung đại sang văn học hiện đại

3. Tiểu kết:

Đây là giai đoạn văn hóa VN có những chuyển biến lớn trên tất cả các lĩnh vực

Giai đoạn này cũng thể hiện sự không chối từ về văn hóa trong việc hấp thu các yếu tố ngoại sinh

Khẳng định sự tiếp nối trong quá trình phát triển của văn hóa nước ta, đưa văn hóa VN lên một tầm vóc mới

II. VĂN HÓA VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN NAY

Bối cảnh lịch sử-văn hóa:

Lịch sử 30 năm chống xâm lược: các sự kiện lớn từ năm 1945 đến năm 1975

Sự thay đổi toàn diện của xã hội VN:

Kinh tế:

Người dân làm chủ

Nông thôn: mô hình hợp tác xã

Công nghiệp: có những bước phát triển nổi bật

Giáo dục:

Nâng cao dân trí=> truyền thống hiếu học được phát huy

Xây dựng được hệ thống giáo dục hoàn chỉnh, tầng lớp trí thức ngày càng đông đảo

Sự lãnh đạo của Đảng trên phương diện văn hóa:

Trước năm 1986:

1943, công bố Đề cương văn hóa VN

Tổ chức các hội nghị văn hóa toàn quốc lần 1 (1946) và lần 2 (1948)

Đại hội văn nghệ toàn quốc lần 2-1957; lần 3 1963; lần 3 1968

Từ năm 1986:

Đại hội đại biểu lần thứ 6, khẳng định vị trí vai trò của văn nghệ

Đại hội VII: văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội

Đại hội VIII: xây dựng nền văn hóa VN tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc

Quan điểm của Đảng về văn hóa ngày càng tiếp cận tính chất khoa học của đối tượng

Đảng lãnh đạp trên phương diện văn hóa sâu sát, kịp thời=> Văn hóa VN từ năm 1945 đến nay đã có những bước phát triển vượt bậc

2. Đặc điểm của văn hóa từ năm 1945 đến nay:

Là giai đoạn VH phát triển cả về lượng và chất

Giai đoạn VH đang chịu sự thách thức khắc nghiệp của thời gian

Sự phát triển của văn hóa nghệ thuật chuyên nghiệp:

Trước 1945: báo chí, in ấn vẫn được chú trọng=> sau 1945, hoạt động văn hóa chuyên nghiệp được tổ chức lại

Chuyên nghiệp hóa hoạt động văn hóa:

Ra đời các đoàn kịch, âm nhạc, điện ảnh

Nghệ thuật sân khấu, tạo hình phát triển

Văn học phát triển

Sự phát triển của đội ngũ hoạt động văn hóa chuyên nghiệp+phong trào văn hóa quần chúng: do trình độ dân trí được nâng cao+do hai cuộc kháng chiến mang lại

=> Sự thay đổi của chủ/khách thể của văn hóa VN và tạo môi trường, tạo nguồn cho văn hóa chuyên nghiệp phát triển

Kế thừa và nâng cao các giá trị văn hóa truyền thống:

Kế thừa, phát triển văn hóa truyền thống như chèo, tuồng, mỹ thuật dân gian

Ngành nghiên cứu văn hóa dân gian phát triển với nhiều công trình có giá trị

Văn hóa bác học cũng được nghiên cứu và thu được nhiều thành tựu

Giao lưu văn hóa ngày càng mở rộng:

Sau khi độc lập: giao lưu tự nhiên, tự giác

Tiếp thu tinh hoa văn hóa nước ngoài xây dựng nền VH mới

Trao đởi văn hóa với nước ngoài ở tất cả các bộ môn văn hóa

Giao lưu văn hóa với các nước được đẩy mạnh:

Sau 1954 giao lưu với các nước XHCN được đẩy mạnh

Từ 1954-1975 giao lưu cưỡng bức với văn hóa Mỹ

Sau 1975 giao lưu văn hóa được đẩy mạnh hơn=> Hiện nay quan hệ với 180+ quốc gia

3. Tiểu kết:

Từ năm 1945 đến nay là giai đoạm có nhiều sự kiện quan trọng trong lịch sử giữ nước của dân tộc

Là giai đoạn có sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng trên phương diện văn hóa

Mở rộng hội nhập văn hóa, giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc

Đây cũng là giai đoạn văn hóa dân tộc phải đối mặt với nhiều thách thức


KHÔNG GIAN VĂN HÓA VIỆT NAM

KHÁI NIỆM Vùng văn hóa:

Một không gian có những tương đồng về hoàn cảnh tự nhiên, dân cư sinh sống... có những mối quan hệ về nguồn gốc và lịch sử, có những tương đồng về trình độ phát triển kinh tế-xã hội có thể phân biệt với các vùng khác

Có 6 vùng văn hóa

CÁC VÙNG VĂN HÓA

VÙNG VĂN HÓA TÂY BẮC

Đặc điểm tự nhiên và xã hội:

Đặc điểm tự nhiên:

Địa hình: núi cao và hiểm trở

Các dãy núi chạy theo hướng Tây Bắc-Đông Nam

Dãy Hoàng Liên Sơn được người Thái gọi là sừng trời (khau phạ)

Sông ngòi gồm Sông Hồng, Đà, Mã=> đất "Ba con sông" tạo nên ba dải nước trắng xanh đỏ

Khí hậu: á nhiệt đới và ôn đới

Địa hình bị chia cắt mạnh tạo thành lòng chảo như Điện Biên, Nghĩa Lộ

Đặc điểm xã hội:

Hành chính: gồm các tỉnh Lai Châu, Lào Cai, Sơn La, Yên Bái và một phần của tỉnh Hòa Bình

Mật độ dân số thấp, có khoảng 20 dân tộc sinh sống: Thái, Hmong, Dao, Kháng, La Ha, Mường, Khơ Mú

2. Đặc điểm vùng văn hóa Tây Bắc:

Văn hóa Thái được coi là văn hóa đại diện

Bản Thái nằm ở ven đồi, chân núi

Sản xuất: làm ruộng và cày nương

Nổi tiếng bởi hệ thống tưới tiêu: mương, phai, lái, lin

Nuôi cá trong ruộng lúa=> món dâng cúng trong lễ cơm mới bao giờ cũng có xôi và cá nướng

Dòng suối đóng vai trò quan trọng trong tâm linh con người=> suối được coi là nhân vật nữ tính

Có thái độ kính trọng suối, rừng=> rừng ban là biểu tượng VH của quê hương

Người Thái sống chân thật, giản dị và rất hòa thuận, tôn trọng người già yêu con trẻ, giúp đỡ nhau rất vô tư

Tính tự giác của người Tây Bắc rất cao

Tín ngưỡng: các dân tộc trong vùng đều có tín ngưỡng "mọi vật đều có linh hồn"=> người Thái cho rằng các bộ phận trên cơ thể con người cũng có hồn, có 80 hồn cả tốt và xấu=> Người chết không biến mất mà trở về sống ở bản của tổ tiên

Văn hóa nghệ thuật: các tác phẩm nghệ thuật phong phú đa dạng từ tục ngữ, thành ngữ, đồng dao, khấn, bùa chú, truyện thơ nhưng chỉ mang tính chất truyền miệng

Múa xòe của dân tộc Thái đã trở thành biểu tượng của nghệ thuật múa Tây Bắc

Âm nhạc: nhạc cụ rất phong phú=> gồm bộ gõ, bộ dây và bộ hơi (trống, chiêng, chũm chọe, quả nhạc, các loại pí, khèn bè, đàn tính)=> tiêu biểu nhất là bộ gõ và bộ hơi

Người Hmong có điệu múa khèn, đá chân; người Khơ mú và Xinh mun có điệu lắc mông, lượn eo; người La Ha có điệu tăng bu

Trang phục: người Tây Bắc rất thích trang trí trang phục và đồ dùng của mình; thường sử dụng những gam màu nóng, tươi sáng

Ăn cơm cá nướng, uống rượu cần=> tộc Hmong có đặc sản thắng cố, bánh bột ngô mèn mén

II. VÙNG VĂN HÓA VIỆT BẮC

Đặc điểm tự nhiên và xã hội:

Hành chính: Cao Bằng; Bắc Cạn, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Hà Giang

Khí hậu: vùng chuyển tiếp từ nhiệt đới sang á nhiệt đới

Địa hình: hình cánh cung

Có 5 sông: sông Thao, Lô, Cầu, Thương, Lục Nam

Cư dân chủ yếu là Tày và Nùng, ngoài ra còn có Dao, Hmong, Sán Chay, Lô Lô=> trong diễn trình lịch sử, cư dân Tày-Nùng có sự gắn bó mật thiết với các dân tộc ở vùng xuôi (quê hương cách mạng)

Về tổ chức xã hội, sống trong các bản ven đường

Đơn vị xã hội nhỏ nhất là gia đình phụ quyền, ý thức trọng nam khinh nữ khá sâu đậm trong cộng đồng

Đặc điểm vùng văn hóa Việt Bắc:

Nhà ở: nhà sàn (2 mái và 4 mái) và nhà đất, có nơi nửa sàn nửa đất

Trang phục giản dị, màu chàm (áo cánh, áo dài, quần, thắt lưng, khăn đội đầu, giày vải)

Ăn gạo tẻ, ngô; trong ngày Tết có cốm, xôi màu, thịt lợn và thịt vịt quay

=> bữa ăn của cư dân Việt Bắc mang tính chất bình đẳng, bác ái

Về giáo dục:

Tầng lớp trí thức Tày-Nùng hình thành từ sớm

Sau kháng chiến chống Pháp, giáo dục ở Việt Bắc được chú trọng phát triển

Một số dân tộc cũng có chữ viết riêng xây dựng tên cơ sở mẫu chữ La tinh

Đời sống văn hóa tinh thần có những nét cơ bản giống với các dân tộc trong khu vực

Người Tày múa kiếm đón năm mới và hát Then

Về tín ngưỡng, tôn giáo:

Tin vào thần bản mệnh, trời-đất, tổ tiên

Hệ thống thân f linh đa dạng(thần núi, sông...)

KHổng giáo, Phật giáo, Đạo giáo đều có ảnh hưởng đến đời sống tâm linh của người dân Việt Bắc

Chùa thờ Phật ít hơn so với châu thổ Bắc bộ

Chữ viết:

Giai đoạn cổ đại không có chữ viết

Giai đoạn cận đại có chữ Nôm

Giai đoạn hiện đại vừa có chữ Nôm vừa có chữ La tinh

1960 xây dựng hệ thống chữ viết theo lối chữ quốc ngữ

Văn học dân gian: đa dạng về thể loại và phong phú về số lượng tác phẩm; lời ca giao duyên lượn cọi và lượn slương là những thể loại tiêu biểu được các thế hệ trẻ Tày-Nùng ưa chuộng

Lễ hội rất phong phú: Hội Lồng Tồng (xuống đồng); chợ tình Khâu Vai

III. VÙNG VĂN HÓA CHÂU THỔ BẮC BỘ

Đặc điểm tự nhiên và xã hội:

Đặc điểm tự nhiên:

Vị trí địa lí: châu thổ Bắc bộ là tâm điểm của con đường giao lưu quốc tế

Địa hình: châu thổ Bắc bộ là địa hình núi xen kẽ đồng bằng hoặc thung lũng, thấp và bằng phẳng, dốc thoải từ Tây Bắc xuống Đông Nam

Khí hậu 4 mùa với mỗi mùa tương đối rõ rệt

Mạng lưới sông ngòi khá dày, có các sông lớn như sông Hồng, Thái Bình, Mã

Đặc điểm xã hội:

Dân tộc chính là dân tộc Kinh

Sản xuất: sống với nghề trồng lúa nước, làm nông nghiệp một cách thuần túy xa rừng, nhạt biển

Sống quần tụ thành làng=> làng là đơn vị xã hội cơ sở ở nông thôn châu thổ Bắc bộ

Các hương ước là những quy định khá chặt chẽ về mọi phương diện của làng

Có nhiều làng nghề thủ công: gốm, dệt, luyện kim, đúc đồng

2. Đặc điểm văn hóa vùng Châu thổ Bắc bộ:

Bắc bộ là cái nôi hình thành dân tộc Việt và là nơi sinh ra các nền văn hóa lớn, phát triển nối tiếp nhau (VH Đông Sơn=> Đại Việt=> Việt Nam)

Ứng xử với thiên nhiên: tạo nên một diện mạo đồng bằng bằng việc đào mương, đắp bờ, đắp đê

Nhà ở của cư dân Việt thường là loại nhà không chái, hình thức nhà vì kèo phát triển

Ăn cơm-rau-cá nước ngọt

Mặc: ngày thường mặc quần áo màu nâu, đàn ông mặc quần lá tọa và áo cánh màu nâu, đàn bà mặc váy thâm và áo nâu; ngày hội hè, lễ tết thì đàn bà mặc áo mớ ba mớ bảy, đàn ông mặc quần trắng, áo dài the, chít khăn đen

Châu thổ Bắc bộ có mật độ di tích văn hóa dày đặc; các di sản văn hóa hữu thể yoof tại ở khắp các địa phương như đền, đình, chùa, miếu

Các di sản VH vô thể cũng khá phong phú, đa dạng bao gồm:

Văn học dân gian Bắc bộ: thần thoại, truyền thuyết, tục ngữ ca dao

Nghệ thuật biểu diễn dân gian: quan họ, hát xoan, hát trống quân, ca trù, chèo, rối nước=> Năm 2011, hát xoan được UNESCO công nhận

Các loại hình nghệ thuật hiện đại cũng đã xuất hiện ở Bắc bộ trong quá trình giao lưu tiếp xúc với văn hóa phương Tây

Tín ngưỡng tôn giáo: thờ thành hoàng, thờ mẫu, các Ông tổ nghề:

Ông tổ nghề là người phát minh, sáng lập, gây dựng nên một nghề

Biết ơn những vị sáng lập, truyền nghề cho mình và di dưỡng đạo lí "uống nước nhớ nguồn", những người theo nghề nào thì thờ phụng các vị tổ của nghề ấy

Ông tổ nghề dệt Nguyễn Diệu, nghề thêu Lê Công Hành

Giáo dục:

Là nơi phát sinh nền văn hóa bác học

Có một tầng lớp trí thức rất đông đảo, danh nhân văn hóa tầm cỡ

Thời hiện đại, là đầu mối đào tạo và nghiên cứu khoa học

=> Bắc bộ là vùng văn hóa mà quá trình tiếp biến văn hóa "diễn ra lâu dài hơn cả và với nội dung phong phú hơn cả"

=> Cùng với đặc điểm là cội nguồn VH của các vùng Trung bộ, Nam bộ, có thể thấy vai trò hướng đạo của vùng VH Bắc bộ rất rõ

Vùng VH này còn có thể chia thành những tiểu vùng VH khác nhau, tuy nhiên đặc thù của các tiểu vùng không làm phá vỡ đặc điểm chung của toàn vùng

3. Kết luận:

Vùng châu thổ Bắc bộ là vùng đất lịch sử lâu đời của người Việt

Nơi khai sinh của các vương triều Đại Việt

Là quê hương của các vùng văn hóa Đông Sơn, Thăng Long-Hà Nội

KHÔNG GIAN VĂN HÓA VIỆT NAM (TIẾP)

IV. VÙNG VĂN HÓA TRUNG BỘ

Đặc điểm môi trường tự nhiên, xã hội

Vị trí địa lý:

Bao gồm các tỉnh từ Quảng Bình đến Bình Thuận và thành phố Đà Nẵng

Địa hình:

Hẹp chiều ngang (tây-đông)

Bị chia cắt theo chiều dọc Bắc-Nam bởi các dãy đồi núi=> khu vực này có nhiều đèo

Sông ngòi: ngắn, chảy ngang theo chiều Tây-Đông ra biển, nước xanh, ít phù sa, châu thổ hẹp; có nhiều cửa sông sâu tạo thành các vịnh, cảng

Ven biển có nhiều đảo và quần đảo

Sát bờ biển có các dải cồn cát chạy dọc dài bắc nam, dưới chân cồn cát là những bàu nước ngọt

Khí hậu:

Mùa hè: khô và nóng

Mùa mưa: đến muộn, nhiều bão

Đặc điểm xã hội:

Từng là vùng đất của các vương triều chúa NGuyễn, nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn

1558, Nguyễn Hoàng váo trấn thủ xứ Thuận Hóa, miền Trung là lãnh địa của các chúa Nguyễn

1788, Nguyễn Huệ lên ngôi vua ở Phú Xuân, đất nước được thống nhất trên cơ bản

1802, Nguyễn Ánh lên ngôi

1802-1945, nhà Nguyễn đặt kinh đô ở Huế

=> Là trạm trung chuyển, đất dừng chân để người Việt tiến về phía Nam mở cõi

=> Là vùng biên viễn của Đại Việt

=> Là nơi diễn ra sự giao lưu trực tiếp giữa nguwoif Việt và người Chăm

2. Đặc điểm văn hóa Trung bộ

Đặc điểm chung:

Là một vùng đất chứa nhiều dấu tích văn hóa Chămpa:

Hữu thể: tháp, tượng bà Po Nagar, phù điêu, trụ đá, bia đá, linga

Vô thể: các địa danh có nguồn gốc Chăm như Cồn Ràng, Cồn Lồi, Cồn Mọi; tín ngưỡng dân gian của người Chăm như tục thờ các nữ thần (thờ bà) trong đó thờ Thiên Ya NA là tiêu biểu nhất, thờ cá Ông (cá voi), thờ cô bác (những người bị nạn trên biển)

Sự giao lưu văn hóa có nhiều điểm khác biệt:

Người Việt tiếp nhận di sản văn hóa của người Chăm và biến thành di sản văn hóa của mình (tiếp thu tín ngưỡng thờ bà mẹ xứ sở của người Chăm)=> Sự tiếp biến văn hóa đã khiến cho diện mạo tín ngưỡng của người Việt ở Trung Bộ có sự thay đổi so với người Việt ở Bắc Bộ

Sự phản ánh thiên nhiên đa dạng

Yếu tố biển, sông, đầm, đồng bằng, núi non đều ánh xạ vào trong các thành tố văn hóa từ diện mạo đến các phương diện khác

Làng nông nghiệp tồn tại đan xen với làng của ngư dân, bên cạnh lễ cúng đình là lễ cúng ông

Bữa ăn nghiêng về các hải sản, yếu tố biển đậm đà hơn trong cơ cấu bữa ăn

Sản xuất:

Trồng lúa cạn, các loại hoa màu trên nương rẫy

Khai thác nguồn lâm sản ở rừng núi

TRồng trọt cây lương thực và cây công nghiệp trên đất đồi ở trung du

Trồng lúa nước ở rẻo đồng bằng hẹp ven sông

Trồng các loại cây củ trên các dải đất cát dọc bờ biển (khoai)

Tiểu vùng văn hóa xứ Huế

Thiên nhiên đa dạng: có rừng, núi, biển và đồng bằng

Văn hóa vật thể: Huế là nơi còn lưu giữ lại được một hệ kinh thành, lăng tẩm và một hệ đền chùa tương đối hoàn chỉnh

Văn hóa phi vật thể cũng rất phong phú và quý giá:

Nghệ thuật biểu diễn: những điệu hò, điệu lý, đặc biệt là dân ca xứ Huế

Lễ hội Huế: gồm lễ hội cung đình và lễ hội dân gian=> lễ hội cung đình phản ánh sinh hoạt lễ nghi của triều Nguyễn; lễ hội dân gian vừa giống vừa khác với lễ hội ở đồng bằng Bắc bộ (tiếp thu tín ngưỡng thờ cá voi và thờ bà mẹ xứ sở của người Chăm)

Huế còn là trung tâm thu hút nhân tài của mọi miền đất nước; là trung tâm giáo dục của nhà Nguyễn, trung tâm sinh hoạt văn hóa, văn học

Ẩm thực Huế: món ăn truyền thống rất phong phú (trên 1000 món), sử dụng một cách tổng hợp các sản vật của vùng; cách trang trí, bài trí món ăn công phu và tỉ mỉ

Trang phục: biểu tượng là nón bài thơ và màu tím Huế

V. VÙNG VĂN HÓA TÂY NGUYÊN

Đặc điểm tự nhiên và xã hội:

Gồm các tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lawsk, Đắk Nông và Lâm Đồng

Vị trí địa lý: núi non, cao nguyên phía Tây Trung Bộ (Kon Tum-Gia Lai: 500m; Di Linh-Lâm Đồng: 1000m)

Có khoảng 20 dân tộc: Gia Rai, Ede, Bana, Giẻ

Mùa lễ hội kéo dài từ tháng 1 đến 3 dương lịch: cồng chiêng, đâm trâu, đua voi

=> Những công việc quan trọng như làm nhà Rông, sửa nhà, lễ cưới, lễ cầu an, làm nhà mồ, bỏ mả cũng được làm trong thời gian này

=> Người Tây Nguyên cho rằng trong các hoạt động văn hóa luôn có sự tham gia của linh hồn những người đã mất

Đặc điểm văn hóa

Là vùng văn hóa có thành phần tộc người rất phức tạp và đa dạng nhưng lại thống nhất về các đặc trưng văn hóa

Sản xuất: canh tác nương rẫy trên vùng đất khô

Sinh hoạt cộng đồng:

Họ có lễ cầu an cho cây trồng sau khi lúa con gái được làm sạch cỏ

Lễ tạ ơn thần sấm đã làm mưa xuống

Tạ ơn mẹ lúa Yang S'ri

Lễ ăn cốm (Xa Mơk ): Mẹ Lúa là trung tâm của lễ; cốm được dành cho trẻ em ăn trước rồi mới đến người lớn

Trong lễ hội, nghi thức hiến sinh trở thành quan trọng và không thể thiếu được

Nhà cửa, kiến trúc:

Nhà Rông là trung tâm hành chính, văn hóa, tôn giáo của buôn làng

Nhà mồ và trang trí nhà mồ là đặc trưng chung của hầu hết các dân tộc sống ở Tây Nguyên=> tượng nhà mồ được đẽo bằng gỗ gạo, phần lớn là tượng người, tượng tròn đầy nhưng không chau chuốt, chỉ là những nét phác, khoét mạnh bạo

Cồng chiêng đóng một vai trò quán xuyến trong đời sống con người, là ngôn ngữ để con người giao tiếp với thiên nhiên, với những người đã khuất=> có mặt trong mọi hoạt động

Phương tiện vận chuyển chủ yếu là bằng voi

Gùi là vật dụng thân thiết

Trang phục của nữ có nhiều hoa văn; nam thì mặc áo, đóng khố; khố có vạt trước dài, vạt sau ngắn có nhiều hoa, diềm khố có tua bông

Văn hóa nghệ thuật:

Văn học dân gian rất phong phú, đặc biệt là sử thi (trường ca), người Ede gọi là "khan"-Khan Đăm Săn

Nghệ thuật múa, âm nhạc múa cũng rất phong phú và độc đáo mang âm điệu khỏe khoắn

VI. VÙNG VĂN HÓA NAM BỘ

Đặc điểm tự nhiên và xã hội:

Vị trí địa lý: là vùng đất của sông giáp biển, bao gồm: đông Nam bộ và Tây Nam bộ (Đồng bằng sông Cửu Long)

Sông ngòi: Đồng Nai, Cửu Long

Khí hậu có 2 màu khô và mưa

Thiên nhiên khoáng đạt, cánh đồng lúa tít tắp, kênh rạch chằng chịt

Nguồn tài nguyên thủy sản dồi dào: nghêu, sò, móng tay, ba khía, rùa, cá

Lịch sử phát triển của vùng đất Nam bộ không liên tục, có sự đứt gãy (sự biến mất của văn hóa Oc Eo vào cuối thế kỉ 8)

Thành phần dân cư đa dạng: người Việt, Khơ mer, Chăm, Hoa, Mạ, Stieng, Chơ ro, M'nông=> người Việt đóng vai trò chủ thể

Làng Việt Nam bộ cũng có nhiều nét khác biệt với làng Việt Bắc Bộ

Là vùng sớm có sự giao lưu với văn hóa phương Tây

Đặc điểm vùng văn hóa Nam Bộ:

Đây là vùng đất mới, vừa có nét giống vừa có nét khác với vùng văn hóa ở vùng đất cội nguồn, của cùng một tộc người=> VD: tiếp thu chiếc bếp cà ràng, nồi gốm, cà om...các món ăn của người Khơme

Quá trình giao lưu văn hóa diễn ra với tốc độ mau lẹ và đã định hình rõ những đặc trưng vùng của mình

Sớm tiếp nhận văn hóa phương Tây và văn hóa Mỹ

Tôn giáo, tín ngưỡng: có nhiều tôn giáo, tín ngưỡng cùng đan xen tồn tại

Tôn giáo ngoại nhập: phật giáo, công giáo, tin lành, hồi giáo

Tôn giáo địa phương: đạo Cao đài, Hòa hảo...

Tín ngưỡng dân gian: thờ tổ tiên, thành hoàng, thờ mẫu...

Ứng xử với môi trường tự nhiên:

Trồng lúa theo hướng khai hoang, quảng canh nhưng không có hệ thống đê điều như Bắc Bộ

Các món ăn của người Nam Bộ có nguồn hải sản phong phú và dồi dào, có tác dụng giải nhiệt=> cơ cấu bữa ăn thiên về thủy sản, các món kho mặn chiếm ưu thế

Ưa chế biến thực phẩm thành các loại khô: khô cá đồng, khô cá biển, khô tôm. khô thịt

Nhiều món ăn hoang dã: đuông, dơi, chuột đồng, cóc, rùa, rắn

Trang phục: áo bà ba, khăn rằn

Lễ hội: Nam Bộ là vùng đất có nhiều lễ hội; lễ hội lớn nhất là lễ hội Bà chúa xứ

Giao thông: đi lại chủ yếu bằng thuyền

Ngôn ngữ:

Tiếng Nam Bộ hình thành cùng quá trình người Việt đến đây khai thác vùng đất mới vào khoảng thế kỉ XVI-XVIII đến nay

Có nhiều từ ngữ mới nảy sinh mà ở những miền khác không có được

Phương ngữ Nam Bộ hình thành cùng với quá trình hình thành chữ Quốc ngữ

Âm nhạc:

Người Nam Bộ đều ưa thích âm nhạc và ca hát

Âm nhạc ở đây vừa đa dạng vừa phức tạp

Âm nhạc Nam Bộ còn thể hiện rõ nét trong dân ca Nam Bộ

Nam Bộ còn là quê hương của sân khấu cải lương

Văn học dân gian:

Thể loại nói: nói vè, nói thơ, nói tuồng

Vè là một thể loại tự sự dân gian mang tính đại chúng rộng rãi nhất ở Nam Bộ

Truyện thơ và hình thức diễn xướng nói thơ cũng là một hoạt động văn nghệ dân gian phổ biến ở Nam Bộ



Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro