16 câu đầu "Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ"

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

"Chinh phụ ngâm" được viết bằng chữ Hán, do tác giả Đặng Trần Côn sáng tác vào khoảng nửa đầu thế kỉ XVIII. Khi ra đời, tác phẩm "Chinh phụ ngâm" đã nhận được sự đồng cảm rộng rãi của tầng lớp Nho sĩ cũng như những người phụ nữ đương thời. "Chinh phụ ngâm" nêu rõ tình cảnh mà người chinh phụ phải nếm trải khi người chồng chinh chiến nơi sa trường. Tâm trạng của người phụ nữ ấy thể hiện rõ nhất qua mười sáu câu thơ đầu trong đoạn trích "Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ":

"Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước...

... Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng"

Những câu thơ đã làm bật lên hình ảnh người thiếu phụ sống trong cảnh cô đơn, khắc khoải, tâm trạng sầu muộn, buồn khổ khi chờ đợi người chinh phu với thời gian dài đằng đẳng.

Mở đầu đoạn trích, tác giả đã khắc họa bức chân dung về tâm trạng của người chinh phụ khi nàng đang cảm thấy cô đơn, lẻ loi, ngày qua ngày mong ngóng tin chồng:

"Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước

Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen

Ngoài rèm thước chẳng mách tin

Trong rèm dường đó có đèn biết chăng?

Đèn có biết dường bằng chẳng biết

Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi

Buồn rầu nói chẳng nên lời,

Hoa đèn kia với bóng người khá thương."

Giữa không gian tĩnh mịch, người chinh phụ hiện lên với nỗi cô đơn khắc khoải. Nàng đi đi lại lại, những bước chân của nàng nào phải bước chân "Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình" của nàng Kiều đang hạnh phúc khi nghe thấy tiếng gọi của tình yêu? Mà đó là những bước chân đầy nặng nề, thẫn thờ như đang "gieo" vào lòng người những âm thanh của sự lẻ loi, cô quạnh. Những hành động "dạo", "thầm gieo từng bước" đã cho ta thấy được nỗi lòng cuồn cuộn những ưu phiền, sự lo lắng không ngớt của người chinh phụ khi nghĩ về chồng. Còn hành động "ngồi", "rủ thác đòi phen" lại gợi lên hình ảnh người con gái hết buông rồi lại vén màn, đấy là hành động vô thức được lặp đi lặp lại, để bật lên sự trông chờ của người chinh phụ qua chiếc cửa sổ, nàng mong ngóng tin tức, ấy thế mà vẫn chẳng ai đáp lại nàng. Tác giả đã khéo léo dùng bút pháp miêu tả nội tâm qua những hành động kết hợp với nhịp thơ chậm, khiến những hành động ấy kéo dài như không gian và thời gian đều ngưng tụ. "Thước" là loài chim báo tin lành, ấy vậy mà giờ đây nó lại được đặt với từ phủ định "chẳng". Phải hay chăng, điều đó đã khẳng định rằng tin tức về người chinh phu chỉ toàn là tin xấu? Bởi lẽ đã ở chiến trường là không thể nào biết ngày được trở về:

"Say khướt sa trường anh chớ mỉa

Xưa nay chinh chiến mấy ai về?"

(Trích "Lương Châu từ kỳ I - Vương Hàn)

Trong đêm cô đơn tĩnh mịch, người chinh phụ với nỗi vô vọng bấy giờ chỉ có ngọn đèn vô tri vô giác làm bầu bạn, để nàng chia sẻ nỗi sầu ưu tư "Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?". Một câu hỏi tu từ bật ra, lại gợi lên nỗi nhớ da diết, tấm lòng thổn thức của người chinh phụ khi chờ đợi ngày chồng quay về, vì một vật không có tri giác nào có thể an ủi cho nỗi lòng ngổn ngang của nàng? Sử dụng điệp ngữ bắc cầu "đèn biết chăng" và "đèn có biết", hai câu thơ trôi ra như lời than thở, như nỗi khát khao, mong muốn được chia sẻ nỗi lòng. Điệp từ "đèn" kết hợp gieo vần "iết" ở điệp từ "biết" và từ "bi thiết" như lời độc thoại nội tâm, trĩu nặng những nỗi sầu, niềm cô đơn của người chinh phụ. Nàng hết thương cho đèn rồi lại thương cho lòng mình bi thiết. Liệu ngọn dầu mờ ảo ấy có thấu chăng nỗi lòng của nàng, có chiếu sáng được đến tâm can đang mong nhớ chồng của nàng? Liệu ngọn đèn có thấu hiểu được sức nặng của cô đơn, của sự nhung nhớ? Người chinh phụ như đắm chìm trong muộn sầu, cô đơn, tâm trạng nàng chốc bồn chồn không yên, chốc lại trông ngóng bóng hình của chồng. "Rèm" như ranh giới cách biệt với thế giới bên ngoài, tạo không gian bí bách đầy vắng vẻ. Sáu dòng thơ đầu đã mở ra một không gian tĩnh mịch, chật hẹp, quạnh hiu song chính không gian ấy đã tô đậm tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ. Nội tâm nhân vật gần như được lột tả trọn vẹn từ dáng vẻ bên ngoài đến những xáo trộn bên trong. Đáp lại cho những mong mỏi của nàng chỉ là những phút im lặng đến rợn người, nàng không khóc, ấy vậy mà ta vẫn cảm được những dòng lệ chứa chan tủi hờn đã cạn, đã thấm sâu vào nỗi buồn mênh mông không lối thoát:

"Sầu ôm nặng hãy chồng làm gối,

Muộn chứa đầy hãy thổi thành cơm"

Dưới ánh sáng của ngọn đèn, người chinh phụ đã tự phơi bày nỗi đau của chính mình, để rồi tâm tư ấy bật thành lời tự thương da diết "Hoa đèn kia với bóng người khá thương". Nàng thấy kiếp đời mình như kiếp hoa đèn mỏng manh dang dở có thể tàn lụi bất cứ lúc nào ngay trước mắt mình. Nếu ngọn đèn trong đêm với Thúy Kiều là nhân chứng cho nỗi đau của người con gái tài sắc: "Một mình một ngọn đèn khuya / Áo đầm giọt tủi tóc se mái sầu" thì hình ảnh ẩn dụ ngọn đèn của người chinh phụ soi bóng trong đêm lại là sự hiện diện của lẻ loi, đơn chiếc, trống trải. Hình ảnh "hoa đèn" và "bóng người" như phản chiếu vào nhau để diễn tả nỗi cô đơn đến héo úa canh dài, đến hao mòn cả thể chất. Dường như nỗi niềm ấy đã vo tròn rồi nén chặt trong lòng của người chinh phụ, khiến nàng không thể thốt nên lời, bởi đó là nỗi "buồn rầu" đến nặng nề, đến thương cảm. Người chinh phụ cô đơn đối diện với ngọn đèn trong không gian cô quạnh mong muốn tìm được sự sẻ chia trong vô vọng, nàng đã một mình một bóng, lặng lẽ đến lúc dầu cạn đêm tàn. Bấy giờ, cả ngọn đèn lẫn bóng người đều tàn tạ.

Nỗi sầu muộn triền miên của người chinh phụ xuyên qua cả không gian, thời gian, nỗi lòng của nàng đã tác động đến cảnh vật, giờ đây trong đôi mắt chỉ có nhớ thương chồng của nàng đâu đâu cũng là cảnh tàn phai và buồn bã:

"Gà eo óc gáy sương năm trống

Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên

Khắc giờ đằng đẵng như niên

Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa"

Bốn câu thơ trên được tác giả sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình để làm bật lên thời gian chờ đợi dài vô tận trong không gian lạnh lẽo. Tiếng "gà eo óc gáy" bất chợt vang lên trong đêm tĩnh mịch, người chinh phụ phải thức đến canh giờ nào vì mong nhớ, vì nỗi đau vô hình trong tâm hồn của chính mình mới có thể nghe được âm thanh ấy? Tiếng gà không chỉ diễn tả dòng thời gian trôi một cách lạnh lùng, ở đây, nó còn là sự giày vò cho lòng người. Biết bao đêm một mình một bóng, một ngọn đèn thao thức năm canh trống, nghe tiếng "gà eo óc gáy" mà lòng thổn thức mong chờ? Sự sống nào có thể chống trội lại thời gian năm tháng, cả bóng cây hòe nay cũng rủ bóng lặng lẽ, im lìm, không gian bỗng càng trở nên hắt hiu. Từ láy "phất phơ" vốn diễn tả bóng cây hòe, nhưng ta như thấu cả tâm tư đau đớn của người chinh phụ, đó là lòng nàng đang nặng trĩu, đang thấm đẫm những nỗi đau xuyên suốt không thời gian. So với nguyên tác, dịch giả đã khéo léo thêm thắt vào những từ láy biểu cảm: một thời khắc đợi chờ "đằng đẵng" tựa cả năm, một mối sầu triền miên "dằng dặc" tựa biển khơi. Vận dụng phép so sánh "Khắc giờ - như niên", "Mối sầu - miền biển xa", tác giả đã vẽ nên bức tranh tuyệt đẹp về tâm trạng hiện giờ của người chinh phụ: đó là lẻ loi, là cô đơn trong không gian, thời gian vô tận. "Mối sầu" vốn là một thứ lưng chừng vô định, giờ đây lại được đặt lên bàn cân với "miền biển xa" vô tận, ấy chẳng phải Đặng Trần Côn đã biến thứ vô hình thành hữu hình? Mối sầu hiện lên nặng trĩu đến khôn nguôi, ôm trùm cả không gian vốn dĩ tĩnh lặng. Bằng bút pháp ước lệ, tác giả đã biến thời gian thành thời gian tâm lý, biến không gian thành không gian cảm xúc. Đêm trôi qua báo hiệu bằng tiếng gáy của gà, ngày tiếp nối chỉ còn bóng cây hòe phất phơ. Không gian não nùng, quạnh hiu cùng thời gian như vô tận càng làm cho người chinh phụ triền miên trong nỗi sầu muộn.

Trải qua những nỗi đau vô hình, bốn câu thơ còn lại tả những hành động miễn cưỡng của người chinh phụ:

"Hương gượng đốt hồn đà mê mải

Gương gượng soi lệ lại châu chan

Sắt cầm gượng gảy ngón đàn

Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng"

Người chinh phụ cố gắng tìm mọi cách để vượt khỏi vòng vây của cảm giác cô đơn đầy đáng sợ bằng những hành động thường ngày của mình. Tác giả đã liệt kê những hoạt động thường nhật của người phụ nữ xưa như đốt hương, soi gương, gảy đàn kết hợp với điệp từ "gượng" để nhấn mạnh nỗi sầu muộn và chán chường của người chinh phụ chờ chồng nơi phương xa. Nàng ngồi trước gương, gắng gượng điểm phấn tô son. Nhưng khi soi gương, nhớ lại những kỷ niệm cùng chồng, nhìn nhan sắc mình đã lụi tàn theo tháng năm hững hờ chẳng đợi người, nàng lại xót thương cho số phận mình mà không kìm được nước mắt. Tuổi xuân héo úa theo tháng năm, người chinh phụ đốt hương để căn phòng thêm ấm áp, hành động như níu giữ, tìm về hơi ấm xưa, vậy mà nỗi buồn chồng chất nỗi buồn, nàng lại tiếp tục trầm mình trong sầu tủi miên man. "Sắt cầm" chỉ đàn cầm và đàn sắt - vốn dĩ hai loại đàn được gảy cùng nhau tạo nên hòa âm - thường để ví cảnh vợ chồng hòa thuận. Nhưng giờ đây, trong gian phòng từng in bóng hai người giờ chỉ còn lại mỗi người chinh phụ, nàng đành gượng gảy đàn trong nỗi cô đơn khôn xiết. Đó đã từng là thú vui tao nhã, từng là công việc quen thuộc, ấy vậy mà giờ hành động ấy lại miễn cưỡng, lại gượng gạo chỉ vì người đàn đã không còn tha thiết như ngày nào. Một mình một bóng lẻ loi trong ngôi nhà chất chứa những hồi ức kỉ niệm của hai người, sao nàng có thể tự nhiên như ngày trước? Gắng đánh đàn nhưng tay không dám gảy, bởi người chinh phụ sợ dây đàn sẽ đứt, và mối duyên tình uyên ương của nàng và chồng sẽ đứt đoạn như đàn. Mượn hai điển tích dây đàn uyên ương, phím đàn loan phượng vốn chỉ hạnh phúc lứa đôi, tác giả đã lột tả được tâm trạng lo lắng, sợ hãi phập phồng cho mối duyên tình của người chinh phụ. Nếu Tô Thị ngày ngày bồng con lên núi chờ tin chồng mà hóa thành hòn vọng phu:

"Tình yêu trên núi chon von

Thương ai hóa đá làm hòn vọng phu"

(Trích "Khúc tình yêu" - Nguyễn Đức Mậu)

Thì người chinh phụ lại ngồi buồn hàng giờ, hàng đêm, khóc cạn cả nước mắt khi không biết chồng mình sống chết ra sao. Nàng có khác là bao với những người phụ nữ một lòng một dạ với người mình đã yêu thương, dù phải chịu những tủi hờn, sống trong kiếp trầm luân cả đời? Đặng Trần Côn đã thành công trong việc miêu tả tâm lý nhân vật rất tinh tế. Người chinh phụ cố gắng thoát khỏi nỗi sợ hãi nhưng bất thành, giờ đây nàng chỉ còn cách luẩn quẫn trong vòng tuần hoàn lo âu và sợ sệt. Song song với nỗi sợ người chồng chinh chiến nơi xa gặp điều chẳng lành chính là nỗi lo sợ về tình yêu có thể mãi mãi dở dang.

Tóm lại, đoạn trích đã miêu tả nội tâm nhân vật đầy sâu sắc, cách dùng từ phong phú, đan xen với những hình ảnh ước lệ đã khắc họa tuyệt đẹp tâm trạng cô đơn, lẻ loi, buồn khổ của người chinh phụ một mình lặng lẽ chờ chồng. Qua đó, đoạn trích đề cao khát vọng được sống, được yêu của lứa đôi. Đoạn trích còn là lời tố cáo đanh thép dành cho những cuộc chiến tranh phi nghĩa đã gây nên những thương tổn sâu sắc trong tâm hồn, những vết thương không thể chữa lành và những trống vắng khó có thể bù đắp của con người. Đoạn trích đã thể hiện được đầy đủ giá trị nhân đoạn của cả tác phẩm, tư tưởng của tác giả và cả bóng dáng của thời đại qua những trang văn học đương thời.

(Bài viết được tổng hợp và viết lại bởi cô Nguyễn Thị Hồng Thái Duy Thương của Trường THPT Bình Phú. Về sau được chỉnh lại cho phù hợp văn phong của Nguyễn Thị Mỹ Huyền, học sinh lớp 10A4 Trường THPT Bình Phú niên khóa 2018 - 2019)

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro