Chương 2

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng


Ba người âm thầm ruổi ngựa. Bunba nghĩ tới thời dĩ vãng.

Lão tướng nhớ đến tuổi thanh xuân, cái tuổi thanh xuân kỳ diệu, mà người Cô-dắc luyến tiếc nhất, vì lão tướng chỉ muốn suốt đời được linh lợi cường tráng.

Lão tướng nhớ các bạn cũ và tự hỏi không biết có còn ai ở lại chiến khu nữa không; Bunba buồn rầu điểm lại những người đã khuất và những người còn sống. Giọt lệ rưng rưng trên khóe mắt, mái đầu hoa râm của lão cúi xuống. Nhưng hai con thì bâng khuâng khác hẳn. Cũng phải nói vài lời về họ: từ tuổi mười hai, hai anh em được vào học trường dòng thánh Kiếp, vì thuở ấy mọi người quyền quý đều thấy cần phải cho con cái được học hành ít nhiều, dù học rồi cũng đến chóng quên thôi. Cũng như mọi thanh niên khác được nuôi dưỡng trong tự do phóng túng, lúc mới vào trường họ vụng về và cục cằn, đến trường rồi họ mới dần dần được uốn nắn cho giống nhau.

Thằng lớn - Ôstáp - ngay từ năm đầu đã dám trốn học. Người ta bắt về đánh cho một trận, rồi bắt vùi đầu vào đèn sách. Bốn lần nó đã chôn cuốn sách học vỡ lòng xuống đất, bốn lần người ta phạt roi thật đau rồi lại mua sách khác cho. Nếu bố không dọa bỏ nó vào nhà tu hai mươi năm làm chú bé hầu lễ, không trịnh trọng thề sẽ không bao giờ cho nó được biết chiến khu nếu nó không dốc lòng theo thầy, thì chắc nó đã dám ngỗ nghịch thêm một lần thứ năm nửa rồi! Kể củng kỳ khôi là chính lão tướng Bunba lại dọa thế và thề thế vì xưa nay Bunba vốn hay chế nhạo mọi học thuyết trên đời và đã dạy con chớ có tin thánh hiền.

Từ đó, Ôstáp quyết lòng học hành chăm chỉ, và trở thành một trò vào hạng khá nhất trường. Thuở ấy, học chẳng phải để hành: những giáo điều, những văn chương thơ phú, những tầm chương trích cú trái ngược với tỉnh thần của thời ấy, không được đem áp dụng với đời! Nhà bác học cũng dốt như dân thường, vì chỉ biết học những cái viển vông. Mặt khác, cách tổ chức trong trường rất dân chủ, trường là nơi tập trung đông đảo những người đang độ hoa niên, cho nên đã thúc đẩy học sinh tham gia những hoạt động khác hẳn với việc dùi mài kinh sử. Ăn khổ, bị phạt nhịn đói, tuổi phương cương nhiều dục vọng, đó là những điều kích thích chí phiêu lưu mạo hiểm của họ. Ý thức đó sau này sẽ rất phát triển ở chiến khu. Vì thế mà nhân dân Kiếp rất lo ngại bọn học trò trường dòng thường luẩn quẩn như mèo đói, trong các đường phố. Bọn hàng rong ngồi quanh bải chợ hễ thấy cậu học sinh nhà tu nào đi gần quầy hàng đầy bánh kẹo, là phải lấm lét coi chừng, chẳng khác nào gà mẹ giữ gà con. Ngay anh trưởng tràng tuy gọi là đi kiểm soát tư cách bạn bè, cũng có mấy cái túi rộng bên quần, đủ trút cả gánh của bà hàng lơ đễnh. Học sinh trường dòng sống một đời riêng biệt. Họ không được liệt vào hàng thượng lưu chỉ gồm có giai cấp quý tộc Ba Lan và Ucraina. Chính viên tổng trấn Ađam Kítsen, mặc dầu là người bảo trợ nhà tu, cũng cấm học sinh không được gần lớp quyền quý và bắt học sinh phải giữ quy củ chặt chẽ. Điều dặn sau cũng thừa: vì từ trưởng giáo đến các thầy dòng đều rất sẵn tay roi vọt đối với học trò. Thỉnh thoảng các vị này bắt học sinh phạt roi trưởng tràng, đánh đau đến mấy tuần liền chưa khỏi.

Nhiều anh cứng cổ coi trò phạt roi cũng bằng như uống cốc rượu mạnh. Trái lại nhiêm chàng thì chua xót cảnh hình phạt nên nếu biết đường là bỏ chạy về chiến khu, chẳng chịu để cho người ta bắt được. Ôstáp dù chăm chỉ học hành cũng không thoát khỏi những trận đòn tàn nhẫn. Vì vậy mà chàng thêm cứng rắn, luyện nên tính kiên cường chẳng hổ danh con người Cô-dắc . Chàng nổi tiếng là quý bạn bè. Tuy ít khi cầm đầu những việc ngỗ nghịch như hái rau, trẩy quả, nhưng có việc mà chàng theo người khởi xướng thì chưa hề phản lại anh em... Dầu bị roi vọt phũ phàng, chẳng chịu thay lòng đổi dạ. Chàng chỉ nghĩ đến giao chiến, đến say sưa và thờ ơ với các thú chơi khác. Trọn nghĩa với kẻ bằng vai, nhưng với tính nết đó thì chàng chỉ nhân đức được theo nghĩa đương thời mà thôi; cho nên chàng cũng mủi lòng khi thấy mẹ hiền rơi nước mắt và đó là điều duy nhất làm cho chàng cúi mặt bâng khuâng.

Thằng em, Ăngđờri, thì hoạt bát và giàu tình cảm. Chàng có học nhưng không phải khắc khổ dùi mài như người chậm chạp. Tính khôn hơn anh, chàng thường cầm đầu những vụ táo bạo, nhưng chàng giàu mánh lới nên ít khi bị phạt. Ôstáp thì mỗi lần có lỗi đành cắn răng cởi áo, nằm xuống chờ roi, không biết cầu khẩn xin tha. Ăngđờri cũng khao khát lập sự nghiệp anh hùng, nhưng lòng còn có nhiều say mê khác. Từ năm mười tám, chàng đã sớm khao khát yêu đương. Hình ảnh người con gái đẹp làm chàng lắm nỗi bâng khuâng. Trong lúc luận bàn kinh sử, chàng mơ màng xây đắp mộng yêu đương: người đẹp có cặp mắt đen nhánh, bộ ngực nở nang, cánh tay ngà ngọc, với cặp áo lông chặt thân hình đào tơ liễu yếu, khiến cho chàng như ngây như ngất. Chàng giấu bạn bè tất cả những nỗi niềm của một tâm hồn trẻ trung say đắm. Vì thuở ấy, nếu ai chưa lập công trên bãi chiến trường mà đã nặng đường tình ái tức là làm ô danh kẻ trượng phu Cô-dắc . Trong những năm học sau, chàng ít cầm đầu những vụ táo bạo, thường thích lang thang các phố hẻo lánh trong thành Kiếp, những phố có nhiều nếp nhà xinh xắn ẩn núp dưới khóm anh đào đầy hoa, làm cho chàng trầm trồ giờ lâu. Có lần chàng vào hắn khu quý phái nhất thành phố - bây giờ là thành Kiếp, nơi ở của bọn quý tộc Ba Lan và Ucraina, nhà cửa thường xây theo một kiểu kiến trúc cầu kỳ.

Một hôm chàng đi qua đó và đang lúc mơ màng thì suýt bị xe của một đức ông Ba Lan đè chết. Tên phu xe với bộ ria mép dữ tợn, quất gọn một roi vào Ăngđờri. Chàng thanh niên nổi giận, điên tiết lên, nắm chặt lấy bánh sau chiếc xe và níu chặt lại. Tên phu xe sợ xô xát bèn ra roi quất mạnh. Mấy con ngựa bứt chạy vụt lên. May mà Ăngđờri vừa rút tay ra khỏi, nhưng lại vấp ngã sấp mặt xuống bùn. Trên đầu có tiếng cười vang giòn. Chàng ngẩng lên và trông thấy một cô gái đẹp tuyệt trần trong cửa số một ngôi nhà. Nàng có đôi mắt đen lánh, màu da rạng rỡ như tuyết trắng dưới những tia nắng đầu tiên của ánh dương buổi sáng. Nàng cười ngặt nghẽo, tiếng cười tăng thêm vẻ nghiêng nước nghiêng thành. Ăngđờri ngẩn người, choáng váng, nhìn ngây ngất cô tiểu thư; rồi bất giác chàng giơ tay chùi bùn trên mặt, nhưng lại càng làm cho mặt lọ lem thêm. Người đó là ai mà mỹ lệ đến thế kia? Chàng hỏi thăm những gia đỉnh nai nịt sang trọng đang đứng trước cửa vây quanh một chàng trẻ tuổi gảy đàn. Họ cười cái mặt lọ lem của chàng và không thèm trả lời. Mãi sau chàng mới biết được tiêu thư ấy là con viên tổng trấn thành Kôvnô, vừa dừng chân ở Kiếp.

Đêm hôm sau, liều lĩnh như bọn học trò ma quỷ, chàng nhảy hàng rào luồn vào trong vườn, trèo lên một cây cao có cành vắt ngang trên nóc. Qua mái nhà, chàng leo lên ống khói và chui tuột vào trong phòng ngủ của tiểu thư. Nàng còn ngồi bên cạnh cây đèn nến, đang tháo đôi hoa tai quý giá. Trông thấy người lạ đột nhiên hiện ra trước mắt, nàng sợ quá đến. nỗi không kêu lên được một tiếng. Nhưng khi nhận ra người thanh niên bèn lẽn, đứng cúi mặt xuống, không dám cử động, khi nhận ra chàng chính là người học trò buổi chiều hôm trước đã ngã sấp xuống bùn ngoài đường phố thì nàng lại không nhịn cười được. Thêm nữa, hình dáng Ăngđờri không có chỉ là ghê sợ, trái lại bộ mặt chàng lại rất dễ thương. Nàng cười rất lâu, và lại còn cợt nhạo chàng nửa. Người đẹp có vẻ xốc nổi như gái Ba Lan, nhưng đôi mắt tuyệt đẹp lại ngắm nhìn sâu thăm thẳm; cậu học trò không dám cựa và hầu như không dám thở nữa. Vị thiên kim con quan tổng trấn mạnh dạn tiến lại gần, chụp lên đầu Ăngđờri chiếc mũ nạm ngọc, đặt đôi hoa tai vào môi và sẽ đặt lên vai chàng một chiếc khăn quàng cổ bằng tơ trong suốt, có viên thêu vàng...

Nàng đùa cợt tỉnh nghịch như con nít, theo tính nết phụ nữ xứ mình, làm cho cậu học trò bối rối trăm phần. Bộ mặt chàng lúc đó thật buồn cười, miệng há hốc, trâng trâng nhìn đôi mắt sáng ngời. Bỗng tiếng gõ cửa khiến nàng giật mình. Nàng ra lệnh cho chàng nấp ngay xuống gầm giường. Rồi khi nỗi lo đã qua, nàng gọi đứa thị tỳ - là một tủ nhân Tác-ta, - bảo nó đưa chàng đi thoát khu vườn cho thật cẩn thận và chỉ chỗ cho chàng vượt qua rào để thoát ra ngoài. Lần ra này anh học trò không được may mắn như lần vào vì bị tên lính gác thức dậy trông thấy, hô hoán ầm lên; bọn tôi tớ của viên tổng trấn tiên chân chàng bằng gây gộc làm cho chàng phải chạy một mẻ nên thân. Sau cuộc phiêu lưu này, Ängđòri thấy đi qua nhà viên tổng trấn thật là nguy hiểm vì gia đinh đông lắm. Ăngđờri còn gặp tiểu thư một lần nữa ở nhà thờ. Nàng nhận ra chàng và vui vẻ cười hóm hình như gập người bạn cũ. Chàng còn thoáng trông thấy nàng một lần thư hai. Ít lâu sau, viên tổng trấn Kôvnô rời khỏi thành phố. Rồi trong khung cửa trước kia có cô gái Ba Lan với đôi mắt đen nhánh, bây giờ hiện ra mặt nạc của một người xa lạ.

Chàng cúi mặt bâng khuâng, nhìn bờm ngựa mà nặng vẻ nhớ nhung người xưa cảnh cũ. Ngọn cỏ xanh cao vút của thảo nguyên dường như nuốt chửng đoàn chiến sĩ. Thấp thoáng chỉ còn thấy ẩn hiện chiếc mũ đen Cô-dắc .

Bỗng, như sực tỉnh, Bunba gọi lớn:

- "Kia! Có chuyện gì thế hỡi các con? Sao lại im bặt như thầy tu tĩnh tọa. Vui lên nào! Dẹp hết nỗi niềm u uất! Hãy châm lửa mỏi điếu thuốc rồi ra roi thúc ngựa phi nước đại, nhanh hơn cánh chim trên thảo nguyên"

Ba người Cô-dắc cúi rạp mình trên lưng ngựa, phi vào trong cỏ rậm. Rồi thì cả đoàn mũ đen của họ cũng khuất nốt. Chỉ còn vết cỏ rẽ tỏ hướng đi vội vàng của họ. Trời hửng sáng. Mặt trời ló ra, tràn ngập ánh nắng ấm áp xuống thảo nguyên. Thế là nỗi buồn rầu man mác vừa ám ảnh họ như có phép màu phá tan: họ thấy lòng lâng lâng nhẹ.

Càng tiến sâu vào trong thảo nguyên, họ càng thấy thảo nguyên đẹp. Thuở ấy, tất cả miền Nam nước Ucraina, chạy dài đến tận Hắc Hải mà ngày nay chúng ta thường gọi là nước Nga mới, là một vùng hoang vu và xanh ngắt không có bóng người. Lưỡi cày chưa hề xới qua những khoảng cỏ cây gợn sóng rộng mênh mông đó. Chỉ có giống ngựa rừng là có in vết chân và vẫn núp trong những nơi không ai vào nổi. Cảnh thiên nhiên ở đây thật là đẹp nhất trần gian. Mặt đất tựa như một cái biển xanh lục vàng ánh điểm thêm hàng ngàn màu sắc lộng lẫy. Xen lẫn giữa đám cỏ thân cao và nhỏ, mọc lên cây mua có đủ màu, từ xanh thanh thiên đến tím nhạt. Trái cây kim tước chín vàng; nụ hoa chả ba trắng hình tan, nở rải rác trên nội cỏ. Lại có cả bông lúa mì chín đỏ, nào ai biết từ đâu rơi xuống, đứng lẻ loi một mình. Dưới bóng cỏ mỏng manh có đàn đa đa chui nấp. Muôn ngàn tiếng chim rộn rã bầu trời. Diều hâu lượn lừng lờ, mắt hau háu khát khao tìm mồi trong đám cỏ. Tiếng kêu như xé của một đàn ngỗng trời vang lên đâu đó, trên một hồ nước xa xa, nằm lạc giữa lòng thảo nguyên. Chim âu chập chờn lên xuống, như say sưa tắm gội trong vòm trời xanh ngắt: khi thì lên vút như một chấm đen, khi thì hiện ra chói lọi một màu trắng muốt dưới ánh mặt trời. Chao ôi! Thảo nguyên lạ kỳ! Sao người vô cùng mỹ lệ làm vậy!

Đoàn ky sĩ chỉ dừng lại để ăn cơm. Bọn tùy tùng chừng mười người Cô-Dắc, đều xuống ngựa. Họ mở hũ rượu, và lấy bầu thay chén. Họ chỉ ăn bánh mì với mỡ hay lương khô, và mỗi người chỉ uống một bầu rượu để lấy sức, vì Tarát Bunba không cho phép ai được say rượu dọc đường. Xong, đoàn người ngựa lại đi cho đến tối sẩm.

Buổi tối, thảo nguyên thay đổi hắn quang cảnh. Cả cái khoảng rộng mông mênh muôn màu muôn vẻ ây, đỏ rực trên dưới ánh sáng của những tia nắng cuối cùng. Dần dần, bóng tối chạy dài trên thảo nguyên, và trùm lên một màu xanh thẫm. Rồi thì sương đêm phủ dày hơn. Từng bông hoa, từng cây cỏ đều bốc hương thơm, ngào ngạt bầu không khí thảo nguyên. Trên nền trời xanh thăm có những vệt dài đó hồng và vàng ánh, tưởng như có ngọn bút khống lô của họa sĩ đã điểm lên.

Đây đó bỏng bềnh những mảnh mây trong nhẹ, một trận gió heo mát nhẹ vờn ngọn cỏ, vuốt ve da mặt của khách qua đường. Chuột thảo nguyên lông khoang lốm đốm chạy ra ngoài hang, đứng thẳng hai chân và rít lên chí chóe. Tiếng đế kêu càng rên. Có lúc, từ một cái hồ xa xôi nào, vọng lại tiếng kêu của một con thiên nga, nghe sang sảng như tiếng bạc. Muốn ngủ đêm trên thảo nguyên, đoàn người chọn một chỗ tốt để trú quân. Họ nhen lửa, bắc nồi nấu cháo Kulich, Mùi thơm bốc lên bay theo làn gió nhẹ. Cơm chiều xong, họ nằm lăn ra đất, lấy áo tơi đắp mình, đàn ngựa buộc dây tha hồ nhai cỏ.

Tinh tú trên trời ngắm nhìn họ ngủ. Muôn nghìn thứ tiếng, vang lên từ đám cỏ dày nhung nhúc sinh vật. Những tiếng ấy càng thánh thót trong đêm khuya càng ru ngủ đoàn du khách. Nửa đêm khuya khoắt, nếu có người thức dậy, thì sẽ thấy thảo nguyên rực lên ánh sáng của muôn vàn đom đóm. Có lúc, một đám cháy bùng lên, sáng ứng chân trời. Đó là những ngọn lác khô trong bụi bờ xa xăm nào đó, hoặc một đống cỏ, đã bốc lửa. Có đàn thiên nga bay về phương bắc, bị ánh lửa hồng rọi vào, người ta tưởng chừng trông thấy những miếng vải đỏ bay lả tả trong nền trời xanh thắm.

(1) Ku lích: một thứ cháo nấu bằng bột mì với mỡ.

Đoàn người lại lên đường bình an vô sự. Không có bóng cây, chỉ là khoảng không hùng vĩ của thảo nguyên man rợ! Thỉnh thoảng hiện lên nét xa xăm của khoảng rừng xanh chạy dọc bờ sông Đniép. Có lần Bunba trỏ một chấm đen nhỏ đang di động trên đám cỏ cao ngất mà nói với hai con:

"Chúng mày xem kìa! Có thằng Tác-ta đang phi ngựa đàng kia!"

Họ trông thấy một cái đầu nhỏ, râu đen, đôi mắt xếch ngược, quay lại nhìn họ, mũi đánh hơi như chó săn. Khi nhận ra là đoàn Cô-dắc đi đông thì nó lẩn nhanh như con hươu.

- Này các con! Thử bắt thằng Tác-ta xem nào...! Mà thôi, đừng thử sức làm gì, bay chẳng đuổi kịp nó đâu, ngựa nó còn nhanh hơn con "tuấn mã" của bố nữa kial

- Tuy vậy Bunba nghĩ cũng nên cẩn thận đề phòng, vì sợ có mai phục. Họ phi nhanh đến một dòng sông nhỏ, là nhánh của Đniép, gọi là sông Tatacca, rồi nhảy ùm cả người lẫn ngựa xuống nước, bơi đi một quãng dài để làm mất dấu; sang được bờ bên kia, họ lại ung dung rong ruổi.

Ba ngày, sau khi gặp chuyện đó, họ đã gần tới nơi. Không khí mát lạnh báo hiệu sắp tới con sông. Rồi sông Đniép hiện ra lấp lánh xa xa, một đường vạch đậm nét nổi bật khỏi chân trời. Con sông dần xích lại. Từng đợt sóng bốc hơi lạnh lên mát rượi. Sau cùng, bức tranh tạo hóa bày ra mà sông choán hết nửa phần. Đến đây, nước không còn bị giam hãm trong thành đá, ào ạt đố về xuôi như biển cả ầm ầm. Mấy hòn đảo chia dòng nước thành đôi, dồn sóng tràn bờ. Đoàn người Cô-dắc xuống ngựa và leo lên một chiếc phà.

Họ đi ba giờ thì đến đảo Khốctichsa, hiện có doanh trại lưu động của quân Dapôrô đóng. Trên bờ, một đám đông đương cãi lộn với người lái đò. Đoàn Cô-dắc sửa lại yên cương. Bunba nai nịt oai phong lẫm liệt, hiên ngang vuốt râu. Hai con trai của lão tướng cũng tự ngắm toàn thân, nửa mừng nửa lo. Đoàn người lên ngựa tiến vào ngoại ô chiến khu. Vừa vào, họ đã điếc tai long óc vì tiếng năm mươi cái búa đội rên trên hai mươi lăm chiếc đe, lại ngần ấy lò rèn đào dưới đất, phủ cỏ lên trên.

Những người thợ thuộc da lực lưỡng ngồi dưới mái hiên, đang bào những tấm da bò. Lái buôn trưng bày dưới mái lều từng đống đá lửa, hạt nổ, thuốc súng. Một người Ácmêni trải ra bán mớ khăn tay rất đẹp, một người Tác-ta quay xâu thịt cừu nướng; một người Do Thái đương vươn cổ chiết rượu thùng sang chai. Còn người đồng hương đầu tiên mà họ gặp thì đang ngủ lăn ra giữa đường tay chân dang thẳng.

Tarát Bunba dừng ngựa lại và không ngớt lời khen ngợi:

"Thật đáng trang dũng sỉ! Điệu nằm ngang thật!" Thật vậy, đúng là một bức tranh đáng ngắm.

Người đó nằm như sư tử, mớ tóc dài quá gang tay xòa trên đất, chiếc quần dạ đỏ rất quý, dính đầy nhựa đen. Thuở ấy người ta vẫn hay cố tình bôi nhọ quần áo để tỏ ý coi rẻ phù hoa.

Trầm trồ người hảo hán xong, Bunba cùng tủy tùng tiến vào một con đường hẹp, đầy rẫy những phường thợ đang làm ngay giữa đường; còn bọn buôn lậu đủ các dân tộc thì nhung nhúc ở ngoại ô.

Ngoại ô này nghiễm nhiên là chợ phiên cung cấp các thứ đồ ăn, thức mặc cho cả chiến khu mà toàn dân chỉ có biết vui say và chinh chiến. Đi một lúc lâu họ mới ra khỏi ngoại ô, đến ngay giữa những "cureng"' lợp gianh hay lợp da theo kiểu Tác-ta. Một số "cureng" có súng đại bác bảo vệ. Ở đây không còn có hàng rào, không còn có những túp nhà lụp xụp có mái hiên cột chống như ở ngoại ô nữa. Tuy có lũy thành nhưng không có lính canh duy chỉ có một đống gỗ súc chất lên để ngăn phía ngoài; điều đó chứng tỏ ở đây, người ta không phải đề phòng gì. Vài người Dapôrô lực lưỡng nằm giữa đường, miệng ngậm tẩu thuốc, thản nhiên nhìn họ đi qua mà chẳng buồn tránh bước. Bunba cùng hai con cẩn thận tiến vào giữa đám người này.

Lão nói: "Chào quý vị!"

Bọn Cô-dắc đáp lại: "Vâng xin chào các ngài!"

Trên cánh đồng cỏ rộng, người Dapôrô ở thành từng nhóm nhỏ ăn vận sặc sỡ như tranh. Khuôn mặt họ sạm đen, đeo nặng dấu vết chiến tranh và gian khổ. À ra chiến khu là đây! Đây là cái tổ ấm đã đẻ ra bao nhiêu hiệp sĩ hùng dũng như sư tử! Tính thần tự do và truyền thống Cô-dắc cũng từ chỗ này mà lan tràn khắp đất Ukraina. Đoàn người tiến vào giữa một bãi rộng thường là chỗ họp của hội đồng quân sự.

Một người Cô-dắc ở trần, ngồi trên chiếc thùng đang cặm cụi vá áo lót. Xa hơn nữa, một toán chơi nhạc chắn ngang đường, giữa có một chàng Cô-dắc đang nhảy múa. Mũ hất xuống gáy, hai tay giơ cao, anh ta vừa nhảy vừa luôn mồm gào to:

"Mau lên! Mau lên nữa! Anh em phường nhạc! Còn em, Phôma! Giữ rượu làm gì, hãy rót mời anh em uống hả hê!"

Phôma một mắt sưng húp, luôn tay rót rượu đầy chén, tha hồ cho hết thảy mọi người nhập bọn. Bên cạnh chàng thanh niên có bốn người Cô-dắc già, trước còn nhảy khoan, sau chồm sang bên, đẩy bắn phường nhạc ra, rồi đột nhiên họ thụp xuống nhảy một điệu Cô-dắc . Gót giày bít bạc gõ vang trên bãi. Đất động thình thình và gió xa đưa âm vang tiếng giày. Một người trong bọn nhảy khỏe hơn, kêu to hơn. Mái tóc hắn phất phơ theo gió, ngực rộng phanh trần, nhưng vẫn khoác áo da cừu trên lưng, mồ hôi nhễ nhại.

Bunba nói với hắn: "Bỏ áo ngoài ra!"

- Không được! - Người kia trả lời.

- Tại sao vậy?

- Không được! Vì hễ tôi mà cởi vật gì là đem gửi chủ quán ráo!

Chàng ta mất cả mũ, cả dây lưng, cả khăn quàng thêu, gửi ráo vào quán rượu rồi. Đám đông càng thêm người: bọn nhảy múa càng nhiều. Nhác nhìn thấy cảnh tượng càng thêm náo nức. Để ghi nhớ những người hùng mạnh đã sáng tạo ra lối nhảy ấy được mệnh danh là điệu Cô-dắc.

Bunba nói:

- Trời! Giá tao không vướng con ngựa, có dễ cũng nhảy với họ rồi! .

Lúc đó mới gặp những vị Cô-dắc già, mái tóc hoa râm. Cả chiến khu tôn trọng các vị vì những chiến công ngày trước. Các vị đã nhiều lần làm thủ lĩnh chiến khu. Một lát sau, Bunba gặp lại nhiều bạn đồng ngủ thuở xưa.

Ôstáp và Ăngđờri chỉ nghe những tiếng gọi nhau:

- A! Bố đấy à? Pétchêerítsa?

- Chào anh Kôdơlúp!

- Kia! Bác Tarát! Gió phương nào đưa bác tới đây?

-.Ồ bác, sao bác lại ở đây, bác Đôlôtô?

- Chào bác Kiếcđiaga, chào bác Gútsty! Ồ bác Dêmen, ngờ đâu lại còn gặp bác!

Các trang lão chiến sĩ, từ mọi nơi trong nước Nga rộng lớn kéo về, thân ái ôm chầm lấy nhau, hỏi thăm nhau tin tức bạn cũ.

- Kátxian thế nào nhi? Bôrôđápca, Kôlôpe và Pichxysốc nửa, thế nào nhỉ?

Chỗ này chỗ nọ vồn vã trả lời. Bunba hay tin Bôrôđápca đã bị xử giảo ở Tôlôpăng, Kôlôpe thì bị lột da dưới chân thành Kidikiếtmen. Còn Píchxisốc thì thủ cấp bị ngâm muối, bỏ vào thùng đem sang tận Côngstăngtinốp!.

Lão tướng Bunba thảm thiết cúi đầu, nhắc đi nhắc lại:

"Thật đáng là những trang dũng sĩ Cô-dắc !"

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro